18 Tháng Tư 20249:08 CH(Xem: 18)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Cố LM Don Dolindo có những cảm nghiệm rất hay. Khi còn nhỏ, ngài chịu nhiều sự bách hại và khổ đau. Bằng cách nào mà ngài đã cố gắng ngửng đầu cao lên khỏi bể nước và luôn vui vẻ? Chúa Thánh Thần đã khơi nguồn cảm hứng cho ngài với lời cầu nguyện đơn sơ như sau:
18 Tháng Tư 20248:35 CH(Xem: 15)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Lúc gần đây có nhiều người biết đến hiện tượng: "Padre Pio of Naples", đó là điều mô tả về cố linh mục Don Dolindo Ruotolo. Ngài qua đời vào năm 1970, chỉ hai năm sau khi Padre Pio qua đời vào năm 1968. Ngài đang làm việc một cách hữu hiệu từ Thiên Đàng. Ngài an ủi, dỗ dành, chữa lành cho rất nhiều người khỏi chứng bịnh lo âu,
18 Tháng Tư 20247:58 CH(Xem: 12)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Có một gương sáng lớn nhất, đó là chính Chúa Giêsu. Kẻ dữ độc ác đã đóng đinh Chúa Giêsu, Con Chí Thánh của Chúa Cha ở trên cây thánh giá. Lúc đó, Satan nghĩ rằng hắn đã chiến thắng. Nhưng sự thật thì trái lại. Đó là bởi vì Chúa đã biến đổi sự dữ ấy thành sự thiện.
18 Tháng Tư 20243:58 CH(Xem: 16)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Sr. Emmanuel viết: Có một phụ nữ gõ cửa nhà tôi. Trông cô ấy thật là quá đau khổ, xuống sắc và thiểu não. Đôi mắt, đôi má và cái miệng của cô trông rất là buồn thảm và héo hắt. Cô bắt đầu kể lể về mọi nỗi thống khổ của mình.
17 Tháng Tư 20249:07 CH(Xem: 31)
https://luisapiccarreta.com/other-category/cristina-montella-sister-rita-of-the-holy-spirit-the-little-girl-of-padre-pio/ 1. Thời thơ ấu Nữ tu Cristina Montella được sinh ra tại vùng Cercola (Naples) vào ngày 3/4/1920. Khi cô bé được 2 tuổi, cô đang ở chơi nhà một người cô thì nhìn thấy một bức hình của Thánh Gerard Majella,
17 Tháng Tư 20244:44 CH(Xem: 31)
Đức Mẹ Guadalupe hiện ra ở Tepeyac, Mexico City, nước Mễ Tây Cơ từ ngày 9/12/1531 đến ngày 12/12/1531 và chữa lành rất nhiều người, dù rằng người ta đã chết nhưng vẫn được Mẹ cho sống lại.
17 Tháng Tư 20241:58 CH(Xem: 24)
Tồi vừa được xem một video clip tiếng Anh ngắn. Cậu bé chừng 6 tuổi mơ thấy mình lên Thiên Đàng. Sáng hôm sau, cậu kể câu chyện mẹ mình: -Mẹ ơi, con gặp một người chị của con ở Thiên Đàng. -Ủa, con chỉ có một người chị ở đây thôi mà.
13 Tháng Tư 20249:23 CH(Xem: 57)
Cảm nghiệm của một thanh niên làm nghề taxi: Con gặp khó khăn trong việc làm nên con quyết định làm nghề tài xế taxi.
13 Tháng Tư 20248:37 CH(Xem: 55)
“Thầy đây. Đừng sợ!” Trong tác phẩm “When All Hell Breaks Loose,” tạm dịch, “Khi Tất Cả Đổ Vỡ,” Steven J. Lawson viết, “Có thể bạn đang ở trong một cơn bão. Chúa có mục đích khi dẫn bạn vào đó. Ngài thừa sức bảo vệ bạn qua cơn bão; và Ngài có một kế hoạch, để cuối cùng, dẫn bạn ra khỏi đó. Hãy hướng mắt về Ngài!” Kính thưa Anh Chị em, “Hãy hướng mắt về Ngài!”
13 Tháng Tư 20248:26 CH(Xem: 54)
Nguồn: Spiritdaily.com 1. Có một câu chuyện kể rằng một vị chỉ huy vào cuối ngày, ông nhìn thấy mặt trời lặn trước khi ông ta có thể chiến thắng nơi chiến trường. Ông ta bèn quỳ xuống cầu nguyện với Đức Mẹ Maria để cầu xin Mẹ ngừng mặt trời lặn trong ngày hôm ấy lại để ông và quân đội của ông có thể chiến thắng. Thế là mặt trời bỗng dưng đứng lại...

LỜI CHÚA: LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY CHÚA NHẬT TUẦN XXVIII THƯỜNG NIÊN, NĂM B SỐNG LỜI CHÚA TIN MỪNG : Mc 10,17-30

09 Tháng Mười 20216:43 CH(Xem: 498)

chuag1LỜI CHÚA: LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY

CHÚA NHẬT TUẦN XXVIII THƯỜNG NIÊN, NĂM B

SỐNG LỜI CHÚA

TIN MỪNG : Mc 10,17-30

Hãy đi bán những gì anh có, rồi hãy đến theo tôi.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

17 Khi ấy, Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi : “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” 18 Đức Giê-su đáp : “Sao anh nói tôi là nhân lành ? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Hẳn anh biết các điều răn : Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” 20 Anh ta nói : “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 21 Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta : “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

23 Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ : “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao !” 24 Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp : “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao ! 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau : “Thế thì ai có thể được cứu ?” 27 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói : “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”

28 Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người : “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy !” 29 Đức Giê-su đáp : “Thầy bảo thật anh em : Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.”

SUY NIỆM-ĐỂ ĐƯỢC GIÀU CÓ GẤP TRĂM LẦN

Theo một thống kê, hiện nay ở châu Âu (trừ nước Ý), những người tự nhận mình là Kitô hữu, nhưng thỉnh thoảng đến nhà thờ thì chiếm số lượng lớn hơn những người có thực hành đạo, thường đi nhà thờ ít nhất mỗi tháng một lần. (Theo radiovaticana.va)

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy, Đức Giêsu đã biết được những mối bận rộn, lo toan của con người: “Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn”. Ai cũng bận rộn với công việc của riêng mình. Chẳng mấy ai quan tâm đến bàn tiệc Nước Trời. Họ coi trọng công việc kiếm tiền hơn là đến với bàn tiệc Thánh Thể. Ngày nay, nhiều người dường như đã lãng quên Thiên Chúa. Ngay cả những gì Thiên Chúa ban, họ cũng không nhận biết mà tạ ơn Người, vì đã thần thánh hóa đồng tiền.

Quả thật, đồng tiền đã che khuất mắt, làm lu mờ lý trí, đến nỗi họ không còn nhận biết Thiên Chúa nữa thì làm sao có thể đến với bàn tiệc Thánh Thể được. Đối với họ, phải chăng “Thiên Chúa đã chết?” Hay không còn hiện diện trong cuộc đời của họ?

(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)

LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY

Lạy Chúa, giữa những cám dỗ ngọt ngào của tiền bạc vật chất, xin Chúa giúp con sẵn sàng sống tinh thần quảng đại, để nhận được gấp trăm là kho tàng trên trời với Chúa. Amen.

TU ĐỨC SỐNG ĐẠO

KINH MÂN CÔI - NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN

NHẬP ĐỀ

Bài chia sẻ này không phải là một suy niệm theo nghĩa chặt (mặc dù ở phần kết, chúng ta sẽ thấy rằng bản chất của kinh Mân Côi là việc suy niệm hoặc chiêm niệm các mầu nhiệm của Chúa Kitô), nhưng chỉ trình bày lịch sử kinh Mân Côi theo những nghiên cứu trong thế kỷ XX. Năm nay chúng ta mừng hai kỷ niệm lịch sử quan trọng.

1/ Thứ nhất là kỷ niệm 800 năm ngày tạ thế của thánh Đa Minh. Nếu không phải tất cả các bức họa vẽ thánh Đa Minh đều gắn liền với kinh Mân Côi, thì ngược lại, có đến 80 phần trăm các bức học về Đức Mẹ Mân Côi đều có sự hiện diện của thánh Đa Minh; 20 phần trăm còn lại thì sao? Thưa rằng 10 phần trăm dành cho Đức Mẹ Lộ Đức và 10 phần trăm dành cho Đức Mẹ Fatima. Trong cả hai lần hiện ra này, Đức Mẹ đều mang tràng chuỗi và khuyến khích đọc kinh Mân Côi nhưng không có thánh Đa Minh đi kèm; nhưng mỗi khi đề cập đến nguồn gốc kinh Mân Côi thì không thể nào vắng bóng thánh Đa Minh. Theo tục truyền, chính Đức Mẹ đã hiện ra trao tràng hạt cho thánh Đa Minh, và thậm chí người ta còn xác định thời gian và nơi chốn nữa: đó là vào năm 1208, tại Prouilhe (miền Nam nước Pháp). Lúc ấy thánh Đa Minh đang giảng đạo cho lạc giáo Albigeois, và không được thành công cho lắm; thế nhưng nhờ chuỗi Mân Côi từ trời ban, ngài đã thu được kết quả phi thường.

2/ Kỷ niệm thứ hai đáng nhớ trong năm nay là chiến thắng của đội quân Kitô giáo ở Lepanto, ngày 7/10/1571 (nghĩa là cách đây 450 năm), đưa đến việc thiết lập lễ Mân Côi trong lịch phụng vụ. Ngoài ra, còn một kỷ niệm nho nhỏ nữa, như sẽ nói sau, là năm nay kỷ niệm 600 năm ấn định hình thức đọc kinh Mân Côi (năm 1421).

Thế nhưng, từ cuối thế kỷ XIX, kỷ niệm thứ nhất đã bị khoa lịch sử xét lại, theo đó thánh Đa Minh chẳng có dính dáng gì đến kinh Mân Côi hết! Vấn nạn dựa trên hai luận cứ chính: thứ nhất, các tài liệu cổ điển không hề nhắc đến việc thánh Đa Minh rao giảng Kinh Mân Côi; thứ hai, kinh Mân Côi được thành hình qua một tiến trình kéo dài nhiều thế kỷ: một đàng nó bắt đầu trước khi thánh Đa Minh xuất hiện, đàng khác nó hoàn tất gần 300 năm sau khi thánh nhân qua đời. Phần lớn bài nói chuyện hôm nay được dành cho luận cứ thứ hai, ôn lại nguồn gốc và sự tiến triển của kinh Mân Côi, bởi vì luận cứ thứ nhất đơn giản, khỏi cần dài dòng.

Thực vậy, các nguồn sử liệu đầu tiên kể lại cuộc đời của thánh nhân và việc thành lập Dòng Giảng thuyết (thế kỷ XIII) [1], không hề đả động đến kinh Mân Côi, mặc dù nói rất nhiều về lòng hiếu thảo của ngài cũng như của thế hệ tiên khởi của Dòng đối với Đức Thiên Chúa Thánh Mẫu, mà dấu chỉ độc đáo nhất là các anh em khấn vâng lời Người[2]. Bài này gồm hai phần. Trước hết, chúng ta sẽ theo dõi sự tiến triển của Kinh Mân Côi dưới hai khía cạnh: hình thức và nội dung (hay nói kiểu kinh viện: chất thể và mô hình). Kế đó, xin đưa ra vài suy nghĩ về bản chất kinh Mân Côi, thêm vào vài nhận xét liên quan đến bối cảnh Việt Nam, cách riêng là chuyện từ ngữ. Tạm thời, chúng ta tạm dùng hạn từ “Mân Côi” vì đã quen thuộc, mặc dù trên thực tế, có khi còn được gọi là Mai khôi, Môi khôi, Văn côi; thời xưa gọi là kinh Rosa (mà ta có thể dịch là “hoa hồng” hay “bông hường”).

I. LỊCH SỬ TIẾN TRIỂN KINH MÂN CÔI

Như vừa nói, kinh Mân Côi có một tiến trình hình thành kéo dài nhiều thế kỷ trước và sau cuộc đời ngắn ngủi của thánh Đa Minh (k.1172-1221). Thực ra, nói đến sự tiến triển của kinh Mân Côi không phải là chuyện đơn giản. Để có thể nói đến sự tiến triển, trước phải xác định căn tính của nó: cái gì làm nên kinh Mân Côi? phải chăng đó là đọc 150 (hay là 50, hay là 200) kinh Kính Mừng? Việc lặp đi lặp lại kinh Kính Mừng đã đủ để cấu thành Kinh Mân Côi chưa, hay còn phải kèm theo việc suy gẫm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu nữa? Ta tạm coi đây là khía cạnh hình thức; còn phần nội dung thì phải thêm vài câu hỏi nữa: đây là kinh nguyện dâng kính Đức Mẹ hay là kính nguyện hướng về Chúa Giêsu? Nên xếp vào khẩu nguyện hay tâm nguyện, suy niệm hay chiêm ngắm? Xin thưa trước rằng những câu hỏi vừa nói chỉ tìm được giải đáp vào giai đoạn cuối, chứ không phải vào lúc khởi đầu công trình, tựa như một ngôi nhà chỉ mặc hình thù nhất định sau khi đã hoàn thành, chứ vào lúc khởi công thì chỉ thấy một đống gạch và bao xi-măng. Bây giờ chúng ta hãy bắt đầu với việc thu gom chất liệu, rồi dần dần cất lên ngôi nhà.

A. Tiến triển về hình thức

Về hình thức cấu thành kinh Mân Côi, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu lịch sử của các yếu tố sau đây: 1) tràng chuỗi đọc kinh; 2) bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ; 3) liên kết với cuộc đời Chúa Cứu thế.

1/ Chuỗi đọc kinh

Lối tiếp cận đơn giản nhất là xâu chuỗi (“lần chuỗi Mân Côi”). Trong lịch sử các tôn giáo, việc sử dụng xâu chuỗi để đọc kinh không phải là cái gì độc đáo của Kitô giáo. Chung quanh ta, Phật giáo cũng có tràng chuỗi, với nhiều loại khác nhau, từ 16,18 cho đến 108 hạt. Tôi còn nhớ bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” của Chu Mạnh Trinh được học thuộc lòng khi còn ở cấp hai: “Lần tràng hạt, niệm Nam mô Phật”. Đi xa hơn một chút về phía Tây, các tín đồ Islam cũng có tràng chuỗi 99 hạt kính các danh hiệu của Thượng Đế. Chúng ta cũng biết là các tràng chuỗi được dùng bằng các chất liệu khác nhau (xương, đá, ngà voi, thủy tinh, vân vân). Các đan sĩ Đông phương Kitô giáo cũng sử dụng các xâu chuỗi khi niệm danh Chúa Giêsu (Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi). và lặp đi lặp lại cả ngàn lần mỗi ngày[3]. Không hiểu tục lệ này là do sáng kiến của các đan sĩ, hay là chịu ảnh hưởng của các Ấn giáo và Phật giáo. Cần nói thêm là bởi vì các đan sĩ nghèo cho nên họ không chế ra những chuỗi hạt đắt tiền, mà chỉ dùng những sợi dây thắt nút[4].

2/ Tràng chuỗi 150 kinh Kính Mừng

Như vừa nói, tràng chuỗi chỉ là một dụng cụ để đếm, và cụ thể là đếm các kinh đọc vắn tắt. Từ đó ta có thể mường tượng nhiều loại chuỗi khác nhau, tùy theo chúng được sử dụng để đọc kinh gì. Đến đây, chúng ta hãy tiến thêm một bước nữa, đó là tràng chuỗi 150 hạt. Chúng ta hãy để các tôn giáo khác ra ngoài và chỉ tập trung vào đạo Công giáo. Tràng chuỗi 150 hạt dùng để đọc kinh gì? Thưa để đọc 150 thánh vịnh. Nên biết là cho đến công đồng Vaticanô II, các tu sĩ mỗi tuần phải đọc trọn bộ thánh vịnh (cuộc cải tổ dưới thời ĐTC Phaolô VI năm 1970 kéo dài ra chu kỳ 4 tuần như hiện nay). Các tu sĩ nào không đọc tiếng Latinh thì thay thế 150 thánh vịnh bằng 150 kinh Lạy Cha. Tục lệ này được ghi nhận nơi các tu sĩ Cluny (dòng Biển Đức) vào thế kỷ X.

Sang thế kỷ XI, nhờ việc cổ động lòng kính mến Đức Mẹ của thánh Bênađô (1090-1153), ngoài tràng chuỗi 150 kinh Lạy Cha, các đan sĩ Xitô còn thêm tràng chuỗi 150 hạt để đọc kinh Kinh Mừng.

Tràng chuỗi được gọi là bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ (Psalterium Beatae Mariae Virginis). Nên lưu ý là đang khi kinh “Lạy Cha” đã có hình thức cố định trong Tân Ước (với hai mẫu thức theo Tin Mừng Matthêu 6,9-13 và Luca 11,9-13, tuy mẫu thức của Matthêu phổ biến hơn), thì kinh “Kính Mừng” phải chờ 16 thế kỷ mới mang hình thức cố định. Trong thiên niên kỷ thứ nhất, có người đã sử dụng lời chào của sứ thần và của bà Elizabeth để chào Đức Maria (Lc 1,28.42), nhưng mãi đến thế kỷ XI, người ta mới dùng như lời cầu nguyện, và kết thúc tại đó (Ave Maria gratia plena, Dominus tecum, / benedicta tu in mulieribus, et benedictus fructus ventris tui). Thánh danh “Giêsu” được thêm vào giữa thế kỷ XII. Phần thứ hai của kinh Kính Mừng xuất hiện từ thế kỷ XIV (nghĩa là sau thánh Đa Minh), lúc đầu ngắn ngủi (“Sancta Maria, ora pro nobis”), rồi dần dần, mỗi nơi mỗi thời kèm thêm một vài lời khẩn nài (chẳng hạn: “xin Mẹ cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi”). Mãi đến khi đức thánh Piô V công bố sách nguyện cải tổ theo ý định công đồng Trentô (năm 1568), kinh Kính Mừng mới mang một hình thức cố định trong toàn thể Hội thánh.

3/ Việc đọc kinh Kính Mừng gắn liền với cuộc đời Chúa Cứu thế

Việc đọc bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ chưa đủ để tạo nên căn tính của Kinh Mân Côi. Cần phải đi thêm bước thứ ba nữa, đó là gắn liền kinh Kính Mừng với các mầu nhiệm của Chúa Cứu thế. Giai đoạn này diễn ra vào thế kỷ XV với nhiều sáng kiến khác nhau, trở thành nguyên nhân cho nhiều cuộc tranh luận giữa các sử gia. Có hai sáng kiến nổi bật nhất, một của Dòng Chartreux, một của Dòng Đa Minh.

a) Sáng kiến thứ nhất của Dòng Chartreux[5] do hai tu sĩ sống hầu như đồng thời nhưng có lẽ không quen biết nhau. Một là cha Henricus Egher Kalcar (1328-1408) ở Koln, chia bộ thánh vịnh Đức Mẹ ra thành 15 chục (có lẽ dễ đếm trên các ngón tay), và đầu mỗi chục thì thêm một kinh Lạy Cha. Hai là cha Dominicus Prussia (1384-1460)[6]: vào cuối mỗi kinh Kính Mừng (lúc đó chỉ có phần thứ nhất, sau thánh danh Giêsu, thêm một câu ngắn liên quan đến cuộc đời Chúa Cứu thế. Tất cả là 50 câu: 14 câu về thời thơ ấu, 6 câu về thời hoạt động công khai, 23 câu về cuộc tử nạn, 7 câu về cuộc Khải hoàn. Thí dụ Ave Maria, gratia plena, Dominus tecum. Benedicta tu in mulieribus, et benedictus fructus ventris tui Jesus Christus, quem Angelo nuntiante de Spiritu Sancto concepisti. Amen... (và Giêsu, Đấng mà Bà thụ thai do Chúa Thánh Thần khi sứ thần truyền tin. Amen)

b) Sáng kiến thứ hai của Dòng Đa Minh, do cha Alain de la Roche O.P.[7] quảng bá. Sự đóng góp của cha Alain vào sự phát triển kinh Mân Côi thật lớn: cha đã phân chia bộ thánh vịnh Đức Mẹ ra làm ba phần để kính nhớ cuộc Nhập thể, Tử nạn, Vinh hiển của Chúa Kitô. Vào mỗi kinh Kính Mừng, cha thêm một tư tưởng suy niệm các chân lý đức tin. Như vậy ngoài việc lặp đi lặp lại kinh Kính Mừng, cha Alain còn thêm việc suy ngắm các mầu nhiệm về cuộc đời Chúa Kitô. Cha đã xuất bản nhiều tác phẩm để giải thích ý nghĩa của kinh Mân Côi (Tractatus de Rosario B. Mariae Virginis, Koln 1472 ; Quodlibet de veritate fraternitatis Rosarii seu Psalterii beatae Mariae Virginis, Koln 1476). Từ nay, “thánh vịnh đức Mẹ” được đổi tên thành “vòng hoa hường trinh nữ Maria”.

Ngoài việc rao giảng Kinh Mân Côi, cha Alain còn thành lập “Hiệp hội thánh vịnh Mẹ Maria” (Confrérie du psautier de Notre Dame), bắt đầu tại Douai (1470). Các hội viên cam kết đọc hết 150 kinh Kính Mừng mỗi ngày[8], cũng như cam kết xưng tội rước lễ vào lúc ghi danh và mỗi năm ba lần (lễ Hiện xuống, lễ thánh Đa Minh, lễ Giáng sinh). Như vậy qua việc đọc kinh Mân Côi, các hội viên được thúc giục đào sâu các mầu nhiệm đức tin và tham gia các bí tích nữa.

Phong trào của cha Alain tiến triển mau lẹ, một phần cũng nhờ sự hợp tác của anh em cùng Dòng. Năm 1474, một bàn thờ dành cho Hội Mân Côi đã được thành lập tại tu viện Frankfurt. Năm 1475 (năm mà cha qua đời), cha bá cáo cho biết rằng số hội viên lên tới hơn 50 ngàn. Cũng vào năm ấy, Huynh đoàn Mân Côi (Fraternitas Rosarii) được thành lập tại Koln (do bề trên Giacôbê Sprenger). Tuy gặp vài chống đối đây đó nhưng cả hai hiệp hội tại Lille và Koln đã được giáo quyền địa phương châu phê. Sang năm 1479, chính Đức Giáo hoàng Sixtô IV đã châu phê hiệp hội, với bulla Ea quae ex fidelium (8/5/1479), mở màn cho các văn kiện Toà thánh về kinh Mân Côi.

Trước sự bành trướng mạnh mẽ của kinh Mân Côi như vậy, cha Alain nghĩ rằng chắc là phải có sự can thiệp từ trời cao. Trong bối cảnh ấy, cha đã gán việc thành lập kinh Mân Côi cho một “thị kiến” trông thấy Đức Mẹ đã trao tràng hạt cho thánh Đa Minh như khí cụ bài trừ lạc giáo[9]. Đây là một “lý luận” rất thông thường vào thời đó. Cha Dominico de Prussia cũng cho rằng mình đã nhận sáng kiến từ một “thị kiến”. Không thiếu sử gia cho rằng cha Alain đã lẫn lộn cha Dominico de Prussia với thánh Đa Minh (Dominico de Guzman). Nhưng có ý kiến phản biện rằng Cha Alain không lẫn lộn đâu, vì cha có quen biết cha Dominico de Prussia, nhưng không đồng ý với sáng kiến của dòng Chartreux muốn rút gọn kinh Mân Côi xuống còn 50 kinh Kính Mừng, đang khi nguồn gốc của bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ phải gồm đủ 150 kinh.

Một chặng nữa trên đường tiến triển của kinh Mân Côi là trong một cuốn sách xuất bản tại Venezia vào năm 1521 (năm nay kỷ niệm 500 năm), cha Alberto da Castello O.P. đã phân chia ba mầu nhiệm lớn của bộ thánh vịnh kinh Đức Mẹ (Nhập thể, Tử nạn, Vinh hiển của Chúa Kitô) thành 15 mầu nhiệm nhỏ.

Văn kiện quan trọng nhất của Toà thánh về kinh Mân Côi là bulla Consueverunt Romani Pontifices (17/9/1569) của Đức Thánh Giáo Hoàng Piô V (OP), trong đó ngài kể lại nguồn gốc, mô tả bản chất, và những mục tiêu của việc đọc kinh Mân Côi. Việc đọc kinh Mân Côi đã được phổ biến rộng rãi trong toàn thể Hội Thánh nhất là từ khi đức Piô V nhìn nhận sự chiến thắng của đạo quân Công giáo chống lại sự tấn công của quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Lêpantô (5/10/1571) là do lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria. Trong công hội (consistorium) ngày 17/3/1572 ngài quyết định thiết lập lễ Mân Côi để kính nhớ biến cố này. Tiếc rằng ngài đã qua đời (1/5/1572) trước khi thực hiện ý định. Theo lời thỉnh nguyện của cha Serafino Cavalli (tổng quyền Dòng Đa Minh), Đức Grêgôriô XIII đã thiết lập lễ Mân Côi (bulla Monet Apostolus, 1/4/1573) và cho phép cử hành vào chúa nhựt đầu tháng 10 tại bất cứ thánh đường nào có bàn thờ kính Đức Mẹ Mân Côi. Ngày 3/10/1716, đức Clêmentê XI nới rộng lễ này ra toàn thể Hội thánh để ghi nhớ một cuộc chiến thắng khác của lực lượng công giáo đẩy lui quân Thổ-nhĩ-kỳ tại Peterwarodine (gần Vienna, ngày 5/8/1716).

Dù sao, kinh Mân Côi từ thời thánh Piô V đã được ấn định là 150 kinh Kính Mừng được phân ra làm 15 chục. Cầu trúc này được duy trì cho đến ngày này. Duy có điều là với tông thư Rosarium Virginis Mariae (16/10/2002), ĐTC Gioan Phaolô II đã thêm 50 chục kinh mầu nhiệm Ánh sáng. Như vậy, tràng chuỗi Mân Côi ngày nay gồm 200 hạt, nhưng có lẽ ít người muốn “cập nhật” bởi vì dài quá! Chúng ta thường chỉ mang chuỗi 50 kinh.

B. Tiến triển về nội dung

Việc mô tả sự tiến triển hình thức vừa rồi đã cho thấy phần nào sự tiến triển về nội dung, từ chỗ đọc 150 kinh Kính Mừng đến việc gắn với việc suy niệm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Cứu thế. Ở đây, khi bàn về sự tiến triển về nội dung, chúng tôi chỉ muốn nêu bật sự chuyển hướng từ kinh nguyện kính Đức Mẹ sang kinh nguyện kính Chúa Giêsu, và điều này xảy ra sau công đồng Vaticano II.

Kinh Mân Côi dịch từ Rosarium tiếng Latinh. Cha Alain tránh dùng tên ấy, và muốn gọi kinh này là Psalterium B.M.V., bởi vì vào thời ấy từ Rosarium mang ý nghĩa hàm hồ. Rosarium đôi khi được hiểu là một hợp tuyển những bài ca hay các danh ngôn. Rosarium cũng có nghĩa là vòng hoa hường mà các công tử mang biếu người đẹp. Rosarium cũng có nghĩa vòng hoa hường mà các cô bé đội trên đầu. Vết tích của ý nghĩa này còn được lưu lại trong tiếng Pháp chapelet (cái nón nhỏ: petit chapeau). Dù nói thế nào đi nữa, đây là một lời kinh kính Đức Mẹ, muốn dâng lên Mẹ những tràng hoa hồng để tỏ lòng thảo hiếu.

Sang thế kỷ XX, trong bối cảnh canh tân phụng vụ cũng như đối thoại đại kết, trọng tâm của kinh này đã được di chuyển từ Đức Maria sang Chúa Kitô. Trong số những văn kiện Toà thánh sau công đồng Vaticanô II bàn về kinh Mân Côi, cần phải nhắc đến tông huấn Marialis cultus của Đức Phaolô VI (2/2/1974) và tông thư Rosarium Virginis Mariae (16/10/2002). Hai văn kiện này không chỉ khuyến khích tăng gia việc lần hạt nhưng nhất là vạch cho thấy giá trị thần học của Kinh Mân Côi, theo đó kinh Mân Côi không phải là kinh kính Đức Mẹ cho bằng kinh kính Chúa Giêsu ; hay nói cách chính xác hơn : đây là kinh nguyện chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu nhờ cặp mắt và trái tim của Mẹ Maria[10]. Trong tông huấn Marialis cultus (số 42 ; 46), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi kinh Mân Côi là “toát yếu Tin Mừng” totius Evangelii breviarium[11]; và “kinh nguyện Tin Mừng” (oratio evangelica) bởi vì nhắm đến trung tâm là mầu nhiệm Nhập thể và Cứu chuộc của Chúa Kitô (xc. GLCG số 971).

Tông thư của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II một đàng lặp lại giáo huấn của vị tiền nhiệm, đàng khác đã mở ra nhiều hướng mới về đạo lý cũng như về thực hành. Xét về nội dung, tông thư giới thiệu kinh Mân Côi như kết hiệp với Đức Maria để chiêm ngắm Chúa Kitô : từ chỗ nhớ lại cuộc đời của Chúa, đến chỗ bắt chước, khẩn cầu cũng như loan báo. Những chiều kích này trùng hợp với kinh nguyện phụng vụ, xoay quanh các biến cố Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô (số 18-25). Xét về thực hành, có thể ví buổi đọc kinh Mân Côi như một buổi Lectio divina (số 26-38) với bốn bước cổ điển: công bố Lời Chúa (lectio), thinh lặng (meditatio), cầu nguyện (oratio, đọc kinh Lạy Cha, Kính Mừng), chiêm ngắm (contemplatio kinh Sáng danh).

Tác giả: Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, O.P.

(Xin xem tiếp tuần sau)

[1] Phan Tấn Thành, Thánh Đa Minh: Sử ký và thánh ký, TSTH số 93 (tháng 8 năm 2021), trang 43-86.

[2] Phan Tấn Thành, Tìm hiểu Dòng Đa Minh. Học viện Đa Minh 2016, chương 16 “Dòng Đa Minh với Đức Maria” trang 240-256.

[3] Phan Tấn Thành, Truyền thống tâm linh trong các Giáo hội Đông phương (Đời sống tâm linh IV), NXB Phương Đông, TPHCM 2017, trang 187-195.

[4] Được gọi là kombológion hay komboskoínon (kómbos tiếng Hy-lạp có nghĩa là nút dây).

[5] Dòng Chartreux lấy tên từ địa điểm thành lập La Chartreuse (Pháp) năm 1084 do thánh Bruno (1030-1101). Lễ kính 6 tháng 10.

[6] Dominicus Prutenus (Dominikus von Preussen) được gọi theo nguyên quán (Danzica, ngày nay thuộc nước Ba-lan, nhưng thời ấy thuộc nước Phổ; Prussia), tên thật là Helion, sinh năm 1382, gia nhập đan viện dòng Chartreux ở Trier năm 1409, và qua đời năm 1460.

[7] Tên gọi là Alain de la Roche, tiếng Latinh là Alanus a Rupe (1428‑1475), phiên âm ra tiếng Ý và Tây-ban-nha thành Alanô. Cha sinh tại Dinan (Bretagne, Pháp), gia nhập dòng Đa Minh năm 1459, và đã từng dạy học tại Paris và giảng thuyết tại nhiều nơi ở Pháp, Bỉ, Đức. Cha qua đời tại Zwolle (Hà Lan) và được dòng Đa Minh kính như chân phúc tuy chưa được Giáo hội tuyên phong (lễ ngày 9 tháng 9).

[8] Cha Alain muốn các hội viên mỗi ngày đọc 150 kinh Kính Mừng. Tại Koln, nghĩa vụ được giảm bớt : các hội viên chỉ buộc đọc mỗi tuần 150 kinh Kính Mừng.

[9] Tục truyền còn gán cho cha Alain 15 lời hứa của Đức Mẹ dành cho kẻ siêng năng đọc kinh Mân Côi. Nhưng các văn kiện Tòa Thánh không đả động gì đến chuyện này.

[10] Một hệ luận mục vụ là có thể đọc kinh Mân Côi đang lúc chầu Mình Thánh Chúa.

[11] Thuật ngữ đã được đức Piô XII sử dụng từ năm 1946: Epistula Philippinas Insulas ad Archiepiscopum Manilensem, AAS 38,1946, p. 419.