CN 4950: THÁNH GIOAN PHAOLO II
Nguồn: Rev Corapi Catholic Channel
Thánh Giáo Hoàng John Paul II tên thật là Karol J. Wojtyla. Ngài ở vùng Wadowice, nước Ba Lan (Poland). Vùng này ở ngoại ô thành phố Krakow. Ngài sinh ngày 18/5/1920. Ngài là người con trai thứ hai của ông Karol Wojtyla (hai cha con có cùng tên) và bà Emilia Kaczorowska. Khi còn trẻ, ngài có một cuộc đời thơ ấu rất khó khăn.
Ngài mất mẹ sớm, lúc mới có 9 tuổi. Anh trai của ngài mất khi ngài mới 12 tuổi. Cha của ngài nuôi ngài lớn lên. Cha ngài truyền lại cho con trai một tinh thần kỷ luật và một đức tin Công Giáo mạnh mẽ. Ngài mồ côi cha vào năm 1941, trước khi ngài bước vào đời sống linh mục.
Trước khi được ơn gọi, ngài Karol học ngành ca kịch tại trường đại học Jagiellonian University ở vùng Krakow, nước Ba Lan.
Tuy nhiên, chỉ một năm sau vào năm 1939, nhóm Nazi của nước Đức chiếm vùng Krakow và buộc đại học phải đóng cửa. Ngài Karol phải làm việc trong một mỏ đá và một xưởng hoá học trong cuộc chiến.
1. Ơn gọi linh mục
Ngài quyết định theo đuổi ơn gọi linh mục và bắt đầu các khoá học vào năm 1942, ở trong một chủng viện hầm trú tại vùng Krakow. Lúc ấy chủng viện này được một vị giám mục trông coi. Về sau ngài nói về ơn gọi của mình như sau:
“Làm sao một người có thể giải thích về con đường của Thiên Chúa? Tuy nhiên, tôi biết rằng trong một thời điểm của cuộc đời tôi, tôi cảm thấy rằng Chúa Giêsu Kito đang nói với tôi về những gì mà Ngài đã nói cho hàng ngàn người trước đó: ‘Hãy đến đi theo Ta!' "
"Tôi đã nghe tiếng nói rõ ràng của Ngài trong tim tôi. Tiếng nói ấy không phải là tiếng của con người, cũng không phải là từ trí tưởng tượng của tôi."
"Chúa Kito kêu gọi tôi hãy phục vụ Ngài như là một linh mục. Không còn điều gì có ý nghĩa hơn cho tôi. Cũng không có một niềm vui lớn lao hơn là được cử hành Thánh Lễ mỗi ngày và được phục vụ Dân Chúa trong Giáo Hội."
Trong thời chiến tranh, ngài chứng kiến những biến cố kinh hoàng, kể cả những sự xua đuổi và ám sát các linh mục khi họ nói nhũng điều chống lại chính quyền Nazi. Về sau, ngài nhớ lại những gương sáng của các vị linh mục vì chính các vị linh mục ấy đã cho ngài thấy rõ ý nghĩa thật của cuộc sống linh mục.
Ngài được thụ phong linh mục ngày 1 tháng 11 năm 1946, khi mà Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt và các chủng viện được mở cửa.
2. Đời sống linh mục
Là một linh mục, ngài Karol chú trọng nhiều về vấn đề trí thức. Ngài có bằng Tiến sĩ Thần Học đầu tiên về thần học của Thánh Gioan Thánh Giá. Về sau, ngài có thêm bằng Tiến sĩ thứ hai về môn đạo đức luân lý Kito giáo. Ngài Karol là một vị tuyên uý của đại học, sau đó ngài trở thành một giáo sư đại học về môn triết học luân lý và xã hội.
Ngài cũng trở nên một nhà lãnh đạo thiêng liêng và một vị cố vấn cho một nhóm thanh niên. Ngài cũng thường cùng với họ đi đua thuyền và cắm trại.
Ngài tiến lên qua Giáo Hội với ý chí ao ước kết nối với quyền năng của Đạo Thiên Chúa và luân lý, đạo đức để nâng đỡ những người dễ bị tổn thương, những người đang sống và làm việc trong nước Cộng Sản Ba Lan.
Ở đó thì sự tự do ngôn luận và tôn giáo không dễ gì hoạt động. Ngài giúp đỡ các giáo dân và người trẻ, làm việc với từng cá nhân để mong mọi người có mối quan hệ sâu đậm với Thiên Chúa.
3. Ngôi vị Giáo Hoàng
Ngài Karol Wojtyła được chọn làm Giáo Hoàng vào ngày 16/10/1978, và ngài lấy tước hiệu là Đức Giáo Hoàng John Paul II. Thánh Lễ đăng quang của ngài là ngày 22/10/1978. Trong bài gỉang, ngài kêu gọi những người Công Giáo là: "Đừng sợ!"
Ngài bắt đầu lịch trình du lịch và làm cho các quốc gia và các cộng đồng lớn mạnh hơn theo sức của ngài. Ngài cũng loan truyền thông điệp chống đối mà không dùng bạo lực để cho có tự do tôn giáo và nhân quyền.
Thánh John Paul II kêu gọi tất cả chúng ta: "Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kito" khi mà năm 2000 đến và khi mà Thiên Niên Kỷ thứ 3 bắt đầu.
Thời đại Giáo Hoàng của ngài là sự chuẩn bị lâu dài và sự khuyến khích để Giáo Hội được canh tân trong sứ mệnh đem Chúa Kito cho thế giới hôm nay.
Cho đến khi cuối đời, ngài luôn giữ một lịch trình đầy kín để loan truyền Tin Mừng, nâng đỡ những người yếu kém và ban ơn lành. Khi được hỏi là sao ngài không giảm bớt lịch trình để bảo vệ sức khoẻ thì ngài trả lời một cách đớn sơ:
“Nếu tôi suy sụp thì tôi cứ suy sụp. "Si crollo, crollo.”
4. Được phong thánh
ĐGH John Paul II được phong thánh năm 2014 sau hai phép lạ khi người ta cầu nguyện xin ngài giúp đỡ. Nữ Tu Marie Simon-Pierre Normand đã cầu nguyện với ĐGH John Paul II để bịnh run rẩy (Parkinson’s disease) của bà chấm dứt. Đó cũng là bịnh mà ĐGH đã gánh chịu.
Người thứ hai được chữa lành là bà Floribeth Mora Diaz. Bà này được chữa lành bịnh đau óc sau khi bà cầu nguyện với ngài.
Lạy Thánh Giáo Hoàng John Paul II, xin ngài cầu bầu cho mỗi gia đình chúng con và cho chúng con được hưởng Phúc Thiên Đàng. Amen.
Kim Hà dịch thuật ngày 22/10/2021