LỜI CHÚA: LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY
CHÚA NHẬT TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN
Fourteenth Sunday in Ordinary Time
SỐNG LỜI CHÚA
CÁC BÀI ĐỌC :
Ca nhập lễ : Tv 47,10-11
Lạy Thiên Chúa, giữa nơi đền thánh,
chúng con hồi tưởng lại tình Chúa yêu thương.
Danh thánh Chúa gần xa truyền tụng,
tiếng ngợi khen Ngài khắp cõi lừng vang ;
tay hữu Chúa thi hành công lý.
Bài đọc 1 : Ed 2,2-5
Chúng vốn là nòi phản loạn, chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.
Bài trích sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en.
2 Bấy giờ, thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Đức Chúa phán với tôi, và làm cho chân tôi đứng vững ; tôi đã nghe tiếng Người phán với tôi. 3 Người phán với tôi : “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta ; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. 4 Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng : ‘Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này.’ 5 Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.”
Đáp ca : Tv 122,1-2a.2bcd.3-4 (Đ. c.2cd)
Đ. Mắt chúng ta hướng nhìn lên Chúa, tới khi Người xót thương chút phận.
1Con ngước mắt hướng nhìn lên Chúa,
Đấng đang ngự trên trời.
2aQuả thực như mắt của gia nhân
hướng nhìn tay ông chủ.
Đ. Mắt chúng ta hướng nhìn lên Chúa, tới khi Người xót thương chút phận.
2bcdNhư mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ,
mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên Chúa
là Thiên Chúa chúng ta,
tới khi Người xót thương chút phận.
Đ. Mắt chúng ta hướng nhìn lên Chúa, tới khi Người xót thương chút phận.
3Dủ lòng thương, lạy Chúa, xin dủ lòng thương,
bởi chúng con bị khinh miệt ê chề ;
4hồn thật quá ê chề vì hứng chịu
lời nhạo báng của phường tự mãn,
giọng khinh người của bọn kiêu căng.
Đ. Mắt chúng ta hướng nhìn lên Chúa, tới khi Người xót thương chút phận.
Bài đọc 2 : 2 Cr 12,7-10
Tôi tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi.
Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
7 Thưa anh em, để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. 8 Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. 9 Nhưng Người quả quyết với tôi : “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. 10 Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.
Tung hô Tin Mừng : x. Lc 4,18
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng : Mc 6,1-6
Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
1 Khi ấy, Đức Giê-su trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói : “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì ? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a và là anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giê-su bảo họ : “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó ; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin. Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy.
Ca hiệp lễ : Tv 33,9
Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy,
hạnh phúc thay ai trông cậy nơi Người.
SUY NIỆM-NIỀM TIN VÀ PHÉP LẠ
Sau những ngày mất định hướng trong ơn gọi, một vị tu sĩ trẻ bắt đầu một cuộc hành trình đến các điểm hành hương, những nơi có nhiều phép lạ xảy ra. Vị tu sĩ trẻ mong ước rằng sau chuyến đi này anh ta sẽ được biến đổi và lấy lại lửa cho đời tu của mình. Trên hành trình đó vị tu sĩ trẻ gặp một vị linh mục, vị linh mục biết được ước mong của anh ta thì khuyên vị tu sĩ trẻ hãy tìm phép lạ nơi Bí tích Thánh Thể.
Chính Chúa Giêsu hiện diện và sẽ biến đổi cuộc đời của anh ta. Trình thuật Máccô cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào tại quê hương mình vì dân chúng không tin những điều Người làm là xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa. Có thể nói, đức tin là yếu tố tiên quyết để phép lạ xảy ra.
Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin tưởng, phó thác của con người. Niềm tin ấy như cánh cửa đưa chúng ta đến với ân sủng của Thiên Chúa, bởi lẽ, niềm tin giúp người ta mở rộng con tim mình ra để đón nhận. Niềm tin cũng giúp người ta cộng tác và để cho Thiên Chúa thực hiện những kỳ công trên cuộc đời mình.
(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)
LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm niềm tin cho chúng con để chúng con nhận ra Chúa luôn hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể. Qua đó, Ngài luôn đồng hành cùng chúng con và ban nguồn trợ lực giúp chúng con vượt qua những khó khăn trong phận người. Amen.
TU ĐỨC SỐNG ĐẠO
SỰ THINH LẶNG CỦA THIÊN CHÚA
“Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: “Bạo tàn!” mà Ngài không cứu vớt? Tại sao Ngài cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt chửng người chính trực hơn mình?” (Hab 1:2, 13). Người ta tự hỏi tất cả những điều này có ý nghĩa gì?
Kỳ 1: Câu hỏi đầy đau đớn
Kỳ 2: Ngôn ngữ của sự thinh lặng
Kỳ 3: Mặc khải về một bức tranh rộng lớn hơn
Kỳ 1: Câu hỏi đầy đau đớn
Nhiều người bị choáng ngợp bởi những gì đang diễn ra trong thời đại chúng ta: sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa dân túy dối trá, chủ nghĩa số đông, nền chính trị cánh hữu bạo động với những chính sách dân tộc hiếu chiến, sự nghèo khổ cùng cực, tình trạng di cư bắt buộc, tình trạng nghèo đói do đại dịch COVID, các thế lực “toàn năng” xây dựng đế chế của mình bằng xương máu những người bị bóc lột, những thảm hoạ môi trường đang lan rộng. Sau tất cả, con người điếng lặng trước “sự thinh lặng” đáng sợ thường thấy của Thiên Chúa, khiến họ phải thốt lên tiếng kêu đau đớn như tiếng kêu của ngôn sứ Habacúc:
“Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: “Bạo tàn!” mà Ngài không cứu vớt? Tại sao Ngài cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt chửng người chính trực hơn mình?” (Hab 1:2, 13). Người ta tự hỏi tất cả những điều này có ý nghĩa gì?
Trong bài viết này, tôi không có ý giải quyết một vấn đề thần học truyền thống và đặc thù vốn xoay quanh vòng luẩn quẩn không đi tới đâu của ba vấn đề: 1) Thiên Chúa tốt lành, nhưng không toàn năng, do đó sự dữ tồn tại; 2) Thiên Chúa toàn năng, nhưng không tốt lành, do đó sự dữ tồn tại; 3) Sự dữ khách quan không tồn tại; hoặc sự dữ là do thiếu vắng sự thiện, hoặc là sự dữ chỉ là suy nghĩ chủ quan.
Lập trường thứ tư cho rằng Thiên Chúa cho phép con người lạm dụng tự do gây ra sự dữ và đau khổ. Cũng có lập trường thứ năm dựa trên bản văn kinh thánh Đệ Nhị Luật 11:13-17, giải thích sự dữ và đau khổ là hành động đáp trả của Chúa đối với sự bất tuân của con người. Tuy nhiên, Gioan 9:2-3 lập luận dứt khoát chống lại những cách giải thích như thế. Dựa trên những lập trường trên, tôi sẽ phản tỉnh về “sự thinh lặng của Chúa” vốn có thể cảm nhận được trong thời đại chúng ta, không phải là suy đoán về nó cho bằng đề nghị một số cách thức hiệu quả để phản ứng trước vấn đề này.
Sự thinh lặng có thể cảm nhận được của Chúa
Kinh nghiệm sống động về sự thinh lặng của Chúa trong một số biến cố bạo lực và tàn ác nhất của lịch sử khiến con người phải thốt lên: “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?” (Tv 22,1). Thật ra, chính Con Thiên Chúa cũng không ngoại lệ. Với những thụ tạo vốn phải hư mất thì còn phải như thế nào nữa? Vì thế, chúng ta thấy những lời kêu than của Gióp: “Con kêu lên Ngài, nhưng Ngài không đáp, con trình diện Ngài, nhưng Ngài chẳng lưu tâm” (G 30, 20), và Thánh vịnh gia cũng kêu lên: “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao? Dù con thảm thiết kêu gào, nhưng ơn cứu độ nơi nao xa vời! Ngày kêu Chúa, không lời đáp ứng, đêm van Ngài mà cũng chẳng yên” (Tv 22, 1-2).
Trong tất cả những điều trên, tình huống tệ nhất là chúng ta hình dung Chúa như một đấng xa lạ, vô cảm trước đau khổ của thụ tạo của Ngài. Ở đây ta thấy có vấn đề nghiêm trọng về sự không tương hợp giữa tình yêu Chúa và sự thinh lặng của Chúa.
Một số giải đáp
Trong truyền thống Kitô giáo, có hai cách tiếp cận để hiểu tương quan giữa Thiên Chúa và loài người: 1) Cách tiếp cận thứ nhất là Thiên Chúa hoàn toàn khác, tuyệt đối tối cao, bất biến và không thể vượt qua; 2) Cách tiếp cận thứ hai có chiều kích Thánh Kinh, đặc biệt trong các Thánh vịnh kêu cầu, ở đó con người kêu cầu với Chúa: cầu xin Chúa thương xót đồng thời thừa nhận mình có tội, nhưng lại đòi một lời giải thích khi họ dường như không đáng chịu nỗi đau đớn, thống khổ. Mặc dù có sự chống đối Thiên Chúa trong những bản văn như thế, sự phản kháng đó cùng tồn tại với niềm tin tưởng sâu sắc vào sự quan phòng của Thiên Chúa.[1] Trong khi cách tiếp cận mang tính kinh viện không thực sự để tâm đúng mức về sự nhập thể, một số mô tả trong Kinh thánh có nguy cơ nhân cách hóa Thiên Chúa quá mức.
Theo triết gia Do Thái Martin Buber, Đấng Tuyệt Đối (Thiên Chúa) không truyền đạt bất kỳ lời nói hoặc luật lệ cụ thể nào cho con người. Những biến cố trong cuộc sống thường ngày là cách Thiên Chúa giao tiếp thực sự với con người, trong đó người ta phải biết tự quyết định; và những quyết định của con người trong những biến cố như thế chính là cách họ đáp lại Thiên Chúa. “Những biến cố xảy ra cho con người là…những dấu hiệu không thể giải thích được về việc con người nhận được thông điệp; những gì người ta làm hoặc không làm cho thấy họ đón nhận hoặc không đón nhận (thông điệp – ND).”[2]
Theo lập luận vừa nêu trên, sự mặc khải của Thiên Chúa thực sự cho con người thấy chính họ, trong và qua cách họ phản ứng với những biến cố trong cuộc đời mình. “Mạc khải không nói đến mầu nhiệm Thiên Chúa mà đề cập đến cuộc sống con người. Và nó đề cập đến cuộc sống của con người như thể là người ta có thể sống và nên sống trong sự hiện diện của mầu nhiệm Thiên Chúa ”[3]
Tuy nhiên, theo Buber, vị Thiên Chúa như thế dường như vĩnh viễn thinh lặng và không có chỗ cho việc mặc khải về bất cứ điều gì thực sự đúng về Thiên Chúa. Vì thế, sự thinh lặng của Thiên Chúa là điều đáng mong đợi, hay nói một cách tích cực hơn, sự thinh lặng đó tạo ra một không gian cho con người đáp lời.
Rõ ràng, bất cứ ai tin vào sự mặc khải trong Kinh thánh nói chung và trong mầu nhiệm nhập thể nói riêng đều khó chấp nhận quan điểm của Buber. Từ góc độ hữu thần, sự thinh lặng của Thiên Chúa có thể cho con người cơ hội để tiếp tục cam kết với Thiên Chúa trong tình yêu và tự do đích thực. Vì, nếu Thiên Chúa lên tiếng dứt khoát, con người sẽ cảm thấy buộc phải đáp lại Thiên Chúa vì sợ bị phạt hoặc mong được khen thưởng, chứ không phải vì tình yêu và tự do đích thực. Ngoài ra, cảm thức về sự thinh lặng của Thiên Chúa có thể tạo nên sự kiên vững nơi người đang chịu đau khổ và tình liên đới với những người đau khổ khác.[4] Có thể chúng ta vẫn cần một cuộc thanh luyện sâu sắc để chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa (Dt 12:10).
Tuy nhiên, không lời giải thích nào trong những điều kể trên có thể nâng đỡ hoặc làm nhẹ bớt gánh nặng thực tế nơi các tín hữu do sự thinh lặng của Chúa gây ra. Và vì thế, “không rõ làm thế nào người ta có thể hiểu được tình yêu của Thiên Chúa, Đấng cho phép những kinh nghiệm gây thất vọng về sự thinh lặng của Chúa”[5] Trong số những phản ứng khác nhau, việc xuất hiện não trạng có tính khải huyền là điều bình thường. Chúng tôi sẽ cố gắng phác thảo một vài đặc tính quan trọng của não trạng này.
Sự bất lực và não trạng khải huyền
Trong truyền thống Do Thái-Kitô giáo, thế giới quan khải huyền được dùng để giải thích những tình huống thảm hoạ và bách hại đến nỗi dường như tuyệt vọng. Mặc dù trong từ điển tiếng Anh Oxford, từ “khải huyền” có một nghĩa đó là “sự phá huỷ hoàn toàn vào ngày tận cùng của thế giới”, và ngạc nhiên thay, ý nghĩa của nó lại nhắm đến việc “vén mở” (từ gốc Hy Lạp apokalypsis) và “khải huyền”. Điều này giúp giải thích những thảm hoạ trong thời đại chúng ta như là những cơ hội để mạc khải khơi niềm hy vọng. Kinh Thánh có nhiều ví dụ tương tự.
Một đánh giá quan trọng về thế giới quan khải huyền
Hoàn cảnh dẫn đến việc xuất hiện của văn chương khải huyền là thời kỳ bị bách hại và đau khổ, cộng với sự tuyệt vọng hoàn toàn để vượt qua những đau khổ và bách hại đó. Khi đó, những người bị bách hại kêu xin Chúa can thiệp để chấm dứt sự bách hại cũng như khiến những kẻ bách hại phải trả lẽ công bằng. Trong khi thái độ trả thù theo kiểu có vay có trả có lẽ không thấy nơi những tiếng kêu van, nhưng chúng ta cũng có thể thấy thái độ đó trong một số bản văn.[6]
Những lý do thường được giải thích cho việc đưa các văn bản nói đến tìm cách trả thù vào Kinh Thánh, bao gồm từ việc chỉ sao chép lại nguồn tài liệu có sẵn cho đến việc khiến người đọc sợ hãi, khiến họ phải sống một cuộc sống đạo đức ngay thẳng; từ việc mang đến sự giải phóng cảm xúc cho những độc giả đang đau khổ bất lực để có thể đưa họ đến niềm hy vọng vào thời kỳ cuối cùng mà ở đó sự can thiệp bạo lực của Chúa sẽ sửa chữa những việc sai trái; từ việc thực sự mong muốn thông qua sự trừng phạt của Thiên Chúa, lòng dạ của những kẻ hành hạ được thay đổi[7] cho đến việc kêu gào một cách tự nhiên đòi lẽ công bằng. Do đó, thế giới quan khải huyền có thể được nghiên cứu dưới các quan điểm luân lý, tâm lý xã hội, thần học và chính trị.
Có thể suy ra rằng yếu tố chính dẫn đến sự xuất hiện của thế giới quan khải huyền chính là sự “thinh lặng của Chúa” trong bối cảnh đau khổ và bách hại, khi những kẻ gây ra tai họa vẫn không bị trừng phạt.
Những quan sát này trở nên quan trọng vào thời điểm nhiều nhóm Kitô hữu đã hình thành nên não trạng khải huyền, khiến họ trở thành những khán giả thụ động trước những tiêu cực đang xảy ra. Ngược lại, một số người có thể đã bắt đầu “cuộc truyền giáo” cực kỳ hung hăng, nếu ta có thể thực sự gọi đó là truyền giáo. Những thái độ như thế cũng có thể được tìm thấy trong các tín đồ của các tôn giáo khác với những đặc thù riêng của các tôn giáo đó. Không có thái độ nào trong số những điều vừa nêu có thể tạo nên phản ứng hiệu quả đối với các tình huống hiện thời trong hoàn bối cảnh châu Á và cũng như bối cảnh toàn cầu.
Joseph Lobo, SJ
(Xin xem tiếp tuần tới)