Wednesday, May 21, 20255:40 PM(View: 23)
Đức Mẹ Sầu Bi giữ một vai trò quan trọng trong sứ mệnh Cứu Chuộc của Chúa Giêsu. Hãy nhớ rằng Trái Tim của Đức Mẹ Sầu Bi bị 7 vết giáo đâm thâu. (Luca 2:35). Mẹ Sầu Bi là Đấng Cầu Thay Nguyện Giúp hữu hiệu và đầy quyền năng.
Wednesday, May 21, 20254:56 PM(View: 22)
Người Công Giáo thường có những cách thức chữa lành và giải thoát. Đó là qua các Bí Tích và các cách thực hành cầu nguyện. Sau đây là 6 cách thức hữu hiệu. Xin hãy in ra và phổ biến cho mọi người.
Wednesday, May 21, 20254:37 PM(View: 24)
Người Công Giáo thường giới thiệu những cách thức chữa lành và giải thoát. Đó là qua các Bí Tích và các cách thực hành cầu nguyện. Sau đây là 6 cách thức hữu hiệu. Xin hãy in ra và phổ biến cho mọi người:
Wednesday, May 21, 20252:37 PM(View: 28)
Cuối cùng cũng đến ngày em gái út cùng chồng và con sang Mỹ định cư. Thế là lại thêm một gia đình người thân nữa của tôi rời bỏ đất nước này. 43 tuổi, em đang có việc làm ổn định ở một doanh nghiệp với mức thu nhập vài chục triệu đồng mỗi tháng.
Tuesday, May 20, 20257:11 PM(View: 44)
*SỨC KHOẺ VÀ TÀI CHÁNH: Không phải tất cả các bịnh tật và yếu kém tài chánh đều xuất phát từ vấn đề tâm linh. Có khi là điều tự nhiên và do tâm lý.
Tuesday, May 20, 20256:30 PM(View: 34)
Sau đây là những hướng dẫn để bạn có thể nhận ra những tội lỗi, những nguyên nhân sâu xa mà đã gây ra các thương tích cho gia đình mình. Sau đó là cách thức để xin ơn chữa lành qua các Phép Bí Tích của đạo Công Giáo.
Tuesday, May 20, 20252:22 PM(View: 62)
Lời nguyện xin ơn nhận biết và chữa lành qua Đức Mẹ Sầu Bi: Lạy Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Chân Lý và Tình Yêu, Con nài xin Ngài với trọn cả tâm hồn con.
Monday, May 19, 20257:29 PM(View: 54)
Tôi vừa dịch xong tất cả là 16 bài cảm nghiệm về ơn gọi linh mục. Tôi nhận thấy rằng dường như gương sáng của các bậc ông bà, cha mẹ và các vị linh mục trong giáo xứ đã tạo nên ơn gọi cho những người trẻ.
Monday, May 19, 20257:04 PM(View: 55)
Cảm nghiệm của tu sinh Curt Vogel: Niềm vui, sự khiêm nhường và tâm trí trong sáng, đó là cuộc đời của một linh mục.
Monday, May 19, 20256:49 PM(View: 49)
Cảm nghiệm của tu sinh Scott Valentyn: Gương sáng của cha mẹ tôi: Cha là người lãnh đạo còn mẹ là người đặt mình đứng sau hết. Ảnh hưởng của gia đình tôi đã làm cho tôi cảm nhận được ơn gọi cao trọng biết là bao!

LỜI CHÚA: LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY CHÚA NHẬT TUẦN XV THƯỜNG NIÊN SỐNG LỜI CHÚA CÁC BÀI ĐỌC : Ca nhập lễ : Tv 16,15

Saturday, July 13, 20245:00 PM(View: 253)

cg13LỜI CHÚA: LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY

CHÚA NHẬT TUẦN XV THƯỜNG NIÊN

SỐNG LỜI CHÚA

CÁC BÀI ĐỌC :

Ca nhập lễ : Tv 16,15

Phần con đây,

nhờ sống công minh chính trực,

nên sẽ được trông thấy mặt Ngài ;

khi thức giấc,

được thoả tình chiêm ngưỡng thánh nhan.


Bài đọc 1 : Am 7,12-15

Hãy đi làm ngôn sứ, tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta.

Bài trích sách ngôn sứ A-mốt.

12 Ngày ấy, tư tế đền thờ Bết Ên là A-mát-gia nói với ông A-mốt : “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm ! 13 Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều.” 14 Ông A-mốt trả lời ông A-mát-gia : “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. 15 Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi : “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta.”

Đáp ca : Tv 84,9ab và 10.11-12.13-14 (Đ. c.8)

Đ. Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa,
và ban ơn cứu độ cho chúng con.

9abTôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán,
điều Chúa phán là lời chúc bình an
cho dân Người, cho kẻ trung hiếu.
10Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa,
để vinh quang của Người
hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.


Đ. Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa,
và ban ơn cứu độ cho chúng con.

11Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ,
hoà bình công lý đã giao duyên.
12Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp,
công lý nhìn xuống tự trời cao.


Đ. Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa,
và ban ơn cứu độ cho chúng con.

13Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc
và đất chúng ta trổ sinh hoa trái.
14Công lý đi tiền phong trước mặt Người,
mở lối cho Người đặt bước chân.


Đ. Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa,
và ban ơn cứu độ cho chúng con.


Bài đọc 2 : Ep 1,3-14

Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-xô.


3Chúc tụng Thiên Chúa
là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Trong Đức Ki-tô,
từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc
cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.
4Trong Đức Ki-tô,
Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,
để trước thánh nhan Người,
ta trở nên tinh tuyền thánh thiện,
nhờ tình thương của Người.
5Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người,
Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử
nhờ Đức Giê-su Ki-tô,
6để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời,
ân sủng Người ban tặng cho ta
trong Thánh Tử yêu dấu.
7Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra
chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi
theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.
8Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta
cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.
9Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu :
thiên ý này là kế hoạch yêu thương
Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô.
10Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn
là quy tụ muôn loài trong trời đất
dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô.
Cũng trong Đức Ki-tô,
11Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự
theo quyết định và ý muốn của Người,
đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng
theo kế hoạch của Người,
12để chúng tôi là những người đầu tiên
đặt hy vọng vào Đức Ki-tô,
chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.
13Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa
anh em đã được nghe lời chân lý
là Tin Mừng cứu độ anh em ;
vẫn trong Đức Ki-tô,
một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần,
Đấng Thiên Chúa đã hứa.
14Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta,
chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc,
để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.

Tung hô Tin Mừng : x. Ep 1,17-18

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Xin Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, soi trí mở lòng cho chúng ta thấy rõ, đâu là niềm hy vọng, mà ơn Người kêu gọi đem lại cho chúng ta. Ha-lê-lui-a.


Tin Mừng : Mc 6,7-13

Đức Giê-su bắt đầu sai các Tông Đồ đi rao giảng.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.


7 Khi ấy, Đức Giê-su gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trên các thần ô uế. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy ; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng ; 9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người bảo các ông : “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và không nghe anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi đất dưới chân để tỏ ý cảnh cáo họ.” 12 Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. 13 Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

Ca hiệp lễ : Tv 83,4-5

Lạy Chúa Tể càn khôn,

là Đức Vua, là Thiên Chúa con thờ,

ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,

cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con

bên bàn thờ của Chúa.

Phúc thay người ở trong thánh điện

họ luôn luôn được hát mừng Ngài.

SUY NIỆM

SẰN SÀNG LÊN ĐƯỜNG

Trong tác phẩm Đường Hy Vọng, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã nói rằng: “Ngần ngại gì? Hãy cắt đứt xích xiềng ràng buộc con, dù là xiềng vàng, để tiến lên. Cuối đường có Chúa đón chờ con.” (Đường Hy Vọng, số 179).

Trích đoạn Tin Mừng theo thánh Máccô hôm nay là cơ hội cho chúng ta kiểm chứng niềm tin vào Thiên Chúa và tinh thần lên đường làm việc tông đồ. Đó là một hành trình, một con đường, một cuộc khởi hành luôn mãi. Đức Giêsu đã gọi và sai các môn đệ đi trên những nẻo đường truyền giáo, nẻo đường loan báo Tin Mừng. Người ban cho các ông quyền năng trừ quỷ và mệnh lệnh lên đường với hành trang gọn nhẹ, đơn sơ để biết sống liên đới và cảm thương.

Quả thế, những môn đệ của Đức Kitô hôm nay cũng được mời gọi sẵn sàng đến với vùng ngoại biên để gieo hạt giống Tin Mừng. Cha Romano Guardini, thần học gia nổi tiếng người Đức của thế kỷ XX, có nói: “Nét đặc trưng của vị tông đồ, đó không phải là uy tín cá nhân, không phải là hoạt động tinh thần đầy tính sáng tạo, cũng không phải là tầm ảnh hưởng đạo đức của họ, nhưng là lời mời gọi của Đức Giêsu, là sứ mạng họ đã lãnh nhận nơi Người, là dấu ấn Người đã khắc ghi nơi họ…Vị tông đồ không nói nhân danh mình, nhưng nhân danh Đức Kitô. Điều thúc đẩy họ không phải là kiến thức hay kinh nghiệm cá nhân, nhưng là Lời Thiên Chúa, là sứ vụ họ đã lãnh nhận...”

(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)

LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY

Lạy Chúa, xin cho con can đảm dấn thân cho sứ vụ loan báo Tin Mừng với một hành trang gắn bó mật thiết với Chúa, sống đơn sơ phó thác và biết liên đới cảm thông. Amen.

TU ĐỨC SỐNG ĐẠO

SỰ THINH LẶNG CỦA THIÊN CHÚA

(Tiếp theo tuần trước 07/07/2024)

Kỳ 2: Ngôn ngữ của sự thinh lặng

Sự thinh lặng của Chúa trong Kinh Thánh

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa nói nhiều hơn là thinh lặng. Trong khi có khoảng 1882 động từ và danh từ diễn tả lời nói của Thiên Chúa, chỉ có 29 động từ và danh từ rõ ràng diễn tả sự thinh lặng của Thiên Chúa.[8] Tuy nhiên, sự thinh lặng của Thiên Chúa và sự than vãn của con người xét như hệ quả là một khía cạnh chính của truyền thống Do Thái-Kitô giáo. Trong Thánh vịnh 94,17 và 115,17, nghĩa của từ tiếng Do Thái “dumah” (im lặng) gắn liền với sự chết. Tình trạng đó diễn tả sự đổ vỡ hoàn toàn trong việc giao tiếp giữa Thiên Chúa và con người.[9]

Tương tự như trên, Israel than khóc vì thiếu vắng lời ngôn sứ, mặc dù lời các ngôn sứ thường là lời phê phán gay gắt về sự bất trung của họ đối với Thiên Chúa (Mk 3:6-7). Sách các Vua quyển thứ nhất, chương 19, kể về cuộc gặp gỡ giữa ngôn sứ Êlia với Thiên Chúa. Ông tìm thấy Thiên Chúa trong một “tiếng nói nhỏ nhẹ” (qol demamah daqqa) (c.12). Nó gần như là sự thinh lặng so với cơn gió mạnh, lửa cháy dữ dội và trận động đất ồn ào đã xảy ra trước đó. Sự thinh lặng này bao gồm hoặc theo sau bởi việc Thiên Chúa xuất hiện.[10] Thomas Martin, dựa trên nhiều nghiên cứu học thuật, đưa ra một cái nhìn thú vị về sự tương phản giữa “tiếng nói lớn” và “tiếng nói nhỏ nhẹ” được nhắc đến trong sách Khải huyền.

Theo đó, “tiếng nói nhỏ nhẹ” của Thiên Chúa (1V 19, đặc biệt là câu 12 và các câu tiếp theo), nếu hiểu rằng Thiên Chúa nói bằng “tiếng nói không ồn ào” trong Kh 1:1-8 hoặc 21:5tt, cho thấy người thuật chuyện đã nghe thấy sự phá huỷ của những “tiếng nói lớn” ở trên trời, vốn được nhắc đến nhiều lần trong sách Khải huyền. Người thuật chuyện đã nhầm lẫn chúng với tiếng nói của Thiên Chúa; và người được cho là tác giả đã phê phán về người thuật chuyện đó.[11] Lỗi của người thuật chuyện là liên kết những âm thanh ồn ào mang tính thống trị (việc xây dựng hình ảnh hay quảng bá công khai là thực hành phố biến trong đế chế La Mã) với tiếng nói từ trời.

Thật vậy, Gioan, người thuật chuyện, được yêu cầu không viết gì khi ông nghe thấy tiếng của “bảy tiếng sấm” (10:2tt), chứng tỏ không có sự mặc khải nào nơi chúng. Nói cách khác, người thuật chuyện đã sai lầm khi mong đợi Chúa ra tay “ồn ào” như hoàng đế La Mã với hy vọng chấm dứt nỗi thống khổ của các Kitô hữu. Thế nhưng người được cho là tác giả của sách Khải huyền lại cho thấy một Thiên Chúa khác, một Đấng nói bằng giọng nhỏ nhẹ, gần như thinh lặng. Điều chúng ta thấy ở đây là “lời nói” của Chúa không nhất thiết phải ồn ào và náo động; lời Chúa có thể nhẹ nhàng như chính sự thinh lặng.

Với ngôn ngữ gần như thần bí, thư Rô-ma 8,26 nói về “những tiếng thở dài khôn tả” mà Thánh Thần của Thiên Chúa “chuyển cầu” từ bên trong chúng ta, vì “chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho đúng.” Những tiếng thở dài của Thánh Thần là cầu nối giao tiếp giữa Thiên Chúa và chúng ta, và chúng không thể được diễn tả bằng bất kỳ ngôn ngữ phàm nhân nào. Có vẻ nghịch lý nhưng những tiếng thở dài này cho thấy một sự thinh lặng hàm chứa sự giao tiếp. Chính trong và qua những tiếng thở dài “thinh lặng” này mà điều không thể diễn tả được lại có thể được truyền đạt. Thật vậy, Kinh Thánh đề cập đến chủ đề “sự thinh lặng của Thiên Chúa” theo nhiều cách khác nhau. Chính trên nền tảng này mà sự hiểu biết của Kitô giáo về sự thinh lặng này phát triển theo nhiều khía cạnh khác nhau.[12]

Những đặc nét của niềm hy vọng Kitô giáo

Trong truyền thống Kitô giáo, giữa những đau khổ và tuyệt vọng vì Thiên Chúa thinh lặng, niềm hy vọng được đặt ở vị trí hàng đầu.

Niềm hy vọng là gì? Niềm hy vọng không thể bị giới hạn chỉ bởi những mong muốn và niềm tin. Niềm hy vọng được diễn tả bằng hành động, và trong trường hợp có mục tiêu chưa đạt được, niềm hy vọng thậm chí có thể sắp xếp lại mục tiêu đó trong khi vẫn nhắm đến mục đích tốt đẹp của mục tiêu. Ví dụ, niềm hy vọng của người Do Thái trong thế kỷ thứ nhất về việc được giải phóng khỏi sự áp bức của người La Mã đã được phác hoạ lại dưới ánh sáng của biến cố Chúa Kitô, từ đó niềm hy vọng cũ trở thành niềm hy vọng sâu sắc hơn về việc giải thoát khỏi tội lỗi và cái chết, vốn vượt xa niềm hy vọng tự do về mặt chính trị. Hơn nữa, tất cả các xu hướng hy vọng mang tính lười biếng và sự thụ động xét như là hệ quả đều bị chỉ trích gay gắt (“Ai không muốn làm việc thì không được ăn!” 2 Tx 3:10), và một sự dấn thân tích cực với thế giới và với nhà cầm quyền đã trở thành một giáo lý nổi bật trong thời Giáo hội sơ khai. Do đó, niềm hy vọng được điều chỉnh đã biến họ thành những tác nhân của sự thay đổi.[13]

Những suy xét trên dẫn chúng ta đến việc tìm hiểu liệu một người đang ở ranh giới của sự tuyệt vọng hoàn toàn, trong khi kinh nghiệm về sự thinh lặng của Thiên Chúa, có thực sự đã hết cách để có thể đối diện cuộc khủng hoảng hiện tại một cách tích cực hay không. Cần phải thừa nhận khả năng thất bại khi đối diện với cuộc khủng hoảng như thế. Cánh cửa đã được gõ có thể không mở ra, nhưng nhiều cánh cửa khác có thể đã mở ra mà thậm chí không cần gõ (Mt 7,7).

Hơn nữa, truyền thống Kitô giáo đưa ra một sự phân biệt quan trọng và hữu ích giữa “niềm hy vọng tự nhiên” và “niềm hy vọng như một nhân đức đối thần.”[14] Điều này có thể làm sáng tỏ vấn đề “sự thinh lặng của Thiên Chúa.” “Niềm hy vọng tự nhiên” là đam mê của con người về điều được cho là tốt đẹp nhưng khó đạt được. “Nhân đức hy vọng đối thần” đề cập đến khao khát của con người muốn được sự kết hiệp tuyệt đối với Thiên Chúa.[15] Trong trường hợp có thể là đã mất hy vọng do sự thinh lặng của Thiên Chúa giữa cơn khốn khó của con người, chúng ta vẫn không rõ liệu niềm hy vọng tự nhiên hay nhân đức hy vọng đối thần, hoặc cả hai, được nói đến.

Theo khái niệm “hiện hữu siêu nhiên”[16] của Karl Rahner, tức là nỗi khát khao hiện sinh tột bậc nơi con người về bất cứ sự thông truyền nào và sự thông truyền với Thiên Chúa, nhân đức hy vọng đối thần dường như không thể mất đi được, bởi vì nó là ơn Thiên Chúa ban cho mỗi người, và nó tồn tại trong chủ thể con người ngay cả khi người đó cố tình từ chối Thiên Chúa. “Hiện hữu siêu nhiên” là phần không thể tách rời của sự hiện hữu của con người (vì vậy nó là “hiện sinh”). Như Rahner đã chỉ rõ, sự hiện hữu này không nhất thiết phải luôn ở mức độ ý thức, vì nó là một điều kiện làm nên sự tồn tại của chúng ta. Do đó, chúng ta có lý do xác đáng để tin rằng ngay cả trong trường hợp mất hoàn toàn “niềm hy vọng tự nhiên” thì “nhân đức hy vọng đối thần” vẫn có thể tiếp tục tồn tại trong chúng ta mà không cần chúng ta nhận thức rõ ràng về nó.

Cuối cùng, đúng là không phải tất cả các đối tượng của “niềm hy vọng tự nhiên” (những mục tiêu hữu hạn) đều có thể hữu ích cho việc đạt được mục tiêu của nhân đức hy vọng đối thần (sự hiệp thông với Thiên Chúa). Do đó, khi “niềm hy vọng tự nhiên” sụp đổ bởi sự thinh lặng của Thiên Chúa, điều đó cũng có thể có lợi cho ích lợi tối hậu của con người[17]

Sự thinh lặng của trời cao như một khúc dạo đầu cho một mặc khải quan trọng?

Những lời nói chỉ có ý nghĩa khi có sự thinh lặng xen vào. Lời nói và sự thinh lặng xen vào tạo nên một bài diễn văn hoàn chỉnh. Do đó, sự thinh lặng không phải là sự thiếu vắng lời nói, mà là điều làm cho lời nói trở nên có ý nghĩa, và thinh lặng cũng có ý nghĩa y như lời nói vậy. Sách Khải huyền 8,1 nói về nửa giờ im lặng khi Con Chiên mở ấn thứ bảy. Dựa vào sách Dacaria 2,13, Habacuc 2,20 và Êzêkien 3,15-16, sự thinh lặng này có thể được hiểu như một khúc dạo đầu cho mặc khải của Thiên Chúa. Mặc dù vậy, việc gán lý do như vậy cho sự thinh lặng của Thiên Chúa trước sự đau khổ của con người có thể dẫn đến việc nhân hóa Thiên Chúa quá mức. Tuy nhiên, cũng có lý khi cho rằng Thiên Chúa đang lắng nghe các tạo vật trước khi nói lời mặc khải.

Theo thuật ngữ của Rahner, chúng ta là “những người lắng nghe Lời” và cảm thấy khắc khoải vì đôi khi chúng ta không nghe thấy Lời đó khi trong thời gian gặp khủng hoảng. Những giai điệu không nghe được có thể ngọt ngào hơn cả những giai điệu được nghe; nhưng trong trường hợp này, chúng ta khao khát những giai điệu chưa được nghe vì thực tại nguyên thủy của các giai điệu này đã để lại dấu ấn không thể xóa mờ trong cách thức hiện hữu của chúng ta. Do đó, có nhiều lý do hơn để tin rằng Thiên Chúa không thể không mặc khải cho chúng ta trong chính sự thinh lặng của Người.

Liệu Thiên Chúa Ba Ngôi có thể thinh lặng không?

Các mối tương quan giữa Ba Ngôi từ trước muôn đời là Chúa Con phát xuất từ Chúa Cha, Chúa Con chủ động đón nhận bản thể từ Chúa Cha, sự phát sinh của Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần chủ động đón nhận bản thể của Ngài từ Chúa Cha và Chúa Con, có thể được coi là các “hành động ngôn ngữ” trong nội tại Thiên Chúa Ba Ngôi. Mặc dù Karl Rahner, vì ngại rằng việc giải thích sai lầm có thể dẫn đến thuyết tam vị, đã do dự trong việc đặt một mối liên hệ “Tôi-Bạn” trong tương quan nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng chừng nào đức tin Kitô giáo còn khẳng định sự phân biệt cá vị trong Ba Ngôi, thì chắc chắn chúng ta có thể nói về Chúa Con như là “Bạn” (tức là con – ND) của Chúa Cha.

Vì vậy, “Thiên Chúa Ba Ngôi thật sự thinh lặng” là một thuật ngữ mâu thuẫn; bởi Ba Ngôi cơ bản là “sự giao tiếp”. Sự “giao tiếp” nội tại này của Ba Ngôi tuôn tràn dẫn đến việc tạo dựng bằng lời Chúa phán; tình yêu và sự tự do hoàn toàn của Thiên Chúa đi vào thời gian và không gian. Thật vậy, các ngẫu tượng không thể nói, nhưng Thiên Chúa hằng sống có thể nói. Lời nói của Thiên Chúa là điều mang lại sự hiện hữu và duy trì tất cả những gì hiện hữu. Vì thế, từ góc nhìn Ba Ngôi, sự thinh lặng của Thiên Chúa là do sự cảm nhận của con người chứ không phải là vấn đề từ phía Thiên Chúa.

Tác giả: Joseph Lobo, SJ
Chuyển ngữ: Lm. Phêrô Phạm Công Tùng, SJ
Chuyển ngữ từ: laciviltacattolica.com - Nguồn: dongten.net

(Xin xem tiếp tuần tới)

[1] Neil F. Pembroke, “Two Christian Spiritualities in Suffering: Biblical Lament and Weil’s Consent”, in Studies in Spirituality 20 (2010) 6f; 14.

[2] A. D. Biemann (ed), The Martin Buber Reader: Essential Writings, New York, Palgrave Macmillan, 2002, 99.

[3] Ibid., 103.

[4] Cf. A. D. Cobb, “Hope and the Problem of Divine Silence”, in European Journal for Philosophy of Religion, 8 (2016/4), 158.

[5] Ibid., 160.

[6] Cf. A. Y. Collins, Crisis and Catharsis: The Power of the Apocalypse, Philadelphia, Westminster, 1984, 161.

[7] Cf. M. J. Gilmour, “Delighting in the suffering of others: early Christian Schadenfreude and the function of the Apocalypse of Peter”, in Bulletin for Biblical Research 16 (2006/1) 130-134.

[8] Cf. M. C.A. Korpel – J. C. de Moor, The Silent God, Leiden-Boston, Brill, 2011, 35.

[9] Cf. P. Torresan – A. Curà (ed), “Silence in the Bible”, in Jewish Bible Quarterly, 31, 3 Jul – Sep 2003, 154.

[10] Cf. T. W. Martin, “The Silence of God: A Literary Study of Voice and Violence in the Book of Revelation”, in Journal for the Study of the New Testament, 41 (2018/2) 247 f; 255f.

[11] In distinguishing between “John the narrator” and “John the implied author” Thomas Martin follows W. C. Booth, The Rhetoric of Fiction, Chicago, Chicago University Press, 1983, 151. Cf. T. W. Martin, “The Silence of God…”, op.cit., 248.

[12] Cf. A. D. Cobb, “Hope and the Problem of Divine Silence”, op. cit., 161.

[13] Ibid., 166.

[14] Cf. Thomas Aquinas, Sum. Theol., II-II. q. 17, art 1, 2, 5.

[15] Cf. A. D. Cobb, “Hope and the Problem of Divine Silence”, op. cit., 171. It should be noted that between the emotion of hope and the theological virtue of hope, there is also the natural virtue of hope, called magnanimity, which has as its object the things of this world. This moral hope is necessary in life. In the case of a Christian person, who lives in theological hope, which has God as object, moral hope, magnanimity, is not only acquired but embedded. In this way, this hope has as its object the things of this world, tamen sub Deo.

[16] See Karl Rahner, “Eine Antwort”, in Orientierung 14 (1950) 141–45. This article is republished in Cornelius Ernst’s English translation, “Concerning the Relationship between Nature and Grace”, in Theological Investigations I, Baltimore, Helicon, 1961, 297–317.

[17] A. D. Cobb, “Hope and the Problem of Divine Silence”, op. cit. 172, 174.