LỜI CHÚA: LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY
CHÚA NHẬT TUẦN XVIII THƯỜNG NIÊN
SỐNG LỜI CHÚA
CÁC BÀI ĐỌC :
Ca nhập lễ : Tv 69,2.6
Lạy Chúa Trời, xin đến giúp con
muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ !
Ngài là Đấng phù trợ,
là Đấng giải thoát con,
muôn lạy Chúa, xin đừng trì hoãn.
Bài đọc 1 : Xh 16,2-4.12-15
Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn.
Bài trích sách Xuất hành.
2 Hồi ấy, trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 3 Con cái Ít-ra-en nói với các ông : “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây !”
4 Đức Chúa phán với ông Mô-sê : “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó ; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không.
12 “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng : Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.” 13 Thật vậy, buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại. Và buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. 14 Rồi khi sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. 15 Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau : “Man hu ?” Nghĩa là : “Cái gì đây ?” Vì họ không biết đó là cái gì. Ông Mô-sê bảo họ : “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn !”
Đáp ca : Tv 77,3 và 4bc.23-24.25 và 54 (Đ. c.24b)
Đ. Chúa ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ.
3Điều chúng tôi đã từng nghe biết
do cha ông kể lại cho mình,
4bcsẽ tường thuật cho thế hệ mai sau :
sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa.
Đ. Chúa ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ.
23Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm,
lại truyền mở rộng cánh thiên môn ;
24Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống,
và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ.
Đ. Chúa ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ.
25Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần,
Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực.
54Chúa đưa dân vào miền thánh địa
là vùng núi non tay Người đã chiếm.
Đ. Chúa ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ.
Bài đọc 2 : Ep 4,17.20-24
Anh em phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-xô.
17 Thưa anh em, đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em : đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. 20 Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Ki-tô như vậy đâu ; 21 ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giê-su và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giê-su. 22 Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, 23 anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, 24 và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.
Tung hô Tin Mừng : Mt 4,4b
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng : Ga 6,24-35
Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
24 Khi ấy, dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có mặt ở bờ biển hồ Ga-li-lê, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Người. 25 Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói : “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy ?” 26 Đức Giê-su đáp : “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. 27 Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” 28 Họ liền hỏi Người : “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn ?” 29 Đức Giê-su trả lời : “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” 30 Họ lại hỏi : “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ? Ông sẽ làm gì đây ? 31 Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép : Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”
32 Đức Giê-su đáp : “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, 33 vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” 34 Họ liền nói : “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” 35 Đức Giê-su bảo họ : “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”
Ca hiệp lễ : Kn 16,20
Lạy Chúa,
Chúa đã ban cho chúng con bánh bởi trời,
bánh có đủ mọi mùi thơm ngon
và mọi hương vị ngọt ngào.
SUY NIỆM-SỐNG HAY LÀ TỒN TẠI?
Có một cuốn sách với tựa đề chơi chữ: “To bee or not to bee – là ong hay không là ong?” Sách kể về cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc sống của một chú ong thợ tên là Buzz. Có lúc chú ong tự hỏi: “Tại sao mình cứ mãi sống trong cái vòng luẩn quẩn, đi hút mật về rồi lại đi tiếp mà không tìm được niềm vui?”
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định chính Người là bánh đem lại sự sống. Sự sống mà Đức Giêsu muốn nói ở đây không phải là sự sống thể lý mà là sự sống thuộc về tinh thần. Đó mới là sự sống mang lại sự toàn vẹn của cứu cánh đời người. Sự sống này chỉ có được nhờ vào tương quan với Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Nếu có lúc bạn tự vấn như chú ong thợ kia, thì cần xét xem, bạn ở đâu trong tương quan với Đức Giêsu? Bí tích Thánh Thể chính là Mình và Máu đích thật của Đức Giêsu. Ở nơi Thánh Thể, người tín hữu tìm thấy cho mình sự sống của linh hồn.
(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)
LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY
Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, Đấng đang hiện hiện thật trong bí tích Thánh Thể. Amen.
TU ĐỨC SỐNG ĐẠO
HỠI NGƯỜI CHĂN CHIÊN, ANH TỪ ĐÂU ĐẾN?
WGPQN (14.07.2024) - Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt (Is 40, 11).
Kinh Thánh rất hay sử dụng hình ảnh người mục tử để nói về những người như vua, các ngôn sứ và tư tế, những người có trách nhiệm hướng dẫn và chăm sóc dân Chúa. Chúa tỏ mình ra là mục tử của dân Người và Đức Kitô cũng thể hiện mình là Mục Tử nhân lành. Để hiểu đầy đủ những lời mang tính biểu tượng này, điều quan trọng trước tiên là phải biết nghề nghiệp rất cụ thể của người mục tử, vai trò và những yêu cầu. Đây hoàn toàn là một hình ảnh có tính ẩn dụ cao và bắt nguồn từ trong Kinh Thánh, cần phải được hiểu theo các bản văn Kinh Thánh và cách dùng của Giáo Hội.
Trước tiên, chúng ta có thể nói ngay rằng: Đức Giêsu – là Mục Tử Nhân Lành – nhưng Ngài không phải là người chăn chiên! Dù các văn bản Kinh thánh không đề cập đến nghề nghiệp của Ngài nhưng chắc chắn rằng Ngài đã làm những việc có liên quan đến gỗ, giống như Thánh Giuse, một người thợ mộc. Khi Đức Giêsu còn trẻ, hẳn thánh Giuse đã dạy cho Ngài cái nghề rất được tôn trọng này trong xã hội thời đó. Tuy nhiên, khi Đức Giêsu nói về chính mình hoặc về các môn đệ của mình, Ngài thường xuyên sử dụng hình ảnh người mục tử hy sinh mạng sống vì đàn chiên của mình, gọi tên chúng, biết chúng và không ngần ngại bỏ cả đàn chiên lại để đi tìm con chiên lạc mất (Lc 15, 4-7).
Những trang Kinh Thánh đầy rẫy hình ảnh người mục tử và những tấm gương mục tử tốt hay xấu, và dân Israel được so sánh với đàn chiên mà Chúa muốn quy tụ, bảo vệ, đem về cho Người. Đối với các Kitô hữu, hình ảnh người mục tử cũng gợi lên sự hiện diện của các mục đồng tại hang Bêlem. Bài viết này không có ý liệt kê tất cả các đề cập - khoảng 150 lần - trong đó các mục tử, đàn chiên hoặc cừu được đề cập trong Kinh Thánh nhưng đúng hơn là trình bày nghề này bao gồm những gì, sống trong điều kiện khí hậu và xã hội đôi khi khó khăn, cần kiên nhẫn, cảnh giác, nhanh nhẹn và… biết đếm!
Royî (người chăn chiên cừu)
Ta bắt đầu với một chút ngữ nghĩa. Từ "người chăn chiên", trong tiếng Híprri là royî, từ gốc là raah, có những ý nghĩa tùy theo ngữ cảnh là: chăn dẫn, chăm sóc, cho ăn, lãnh đạo, điều khiển, cai trị, dạy dỗ, liên kết, đồng hành, gắn bó¸ làm bạn … Có nhiều cách dịch từ royî này nhưng cách dịch phổ biến nhất vẫn là “người chăn chiên, cừu” hoặc “mục tử”.
Nghề chăn chiên trong thời Kinh Thánh
Vậy nghề này như thế nào vào thời Kinh thánh? Rất lâu trước khi có những người làm trang trại định cư, những người du mục phụ thuộc vào đàn chiên hay dê của mình để được cung cấp sữa, pho mát, thịt và quần áo. Có vẻ như cừu hiếm khi được nuôi để lấy thịt, mặc dù những chiếc đuôi béo ngậy của chúng được coi là một món ngon! Sữa cừu đông là một trong những thực phẩm của người nghèo. Bình đựng rượu được làm từ da dê, lông đen hoặc nâu của chúng được dùng để dệt vải lều và áo choàng cho những người khấm khá. Với len cừu, người ta dệt áo choàng dài và áo khoác để giữ ấm cho mùa đông. Chiên và dê được dâng làm hy lễ cho Thiên Chúa. Loại vật nuôi này thích nghi tốt với đồng cỏ cằn cỗi nơi miền núi. Chiên và dê được chăn thả chung với nhau. Người chăn chiên bảo vệ đàn chiên của mình khỏi thú dữ, chăn dắt và dẫn chúng đến các nguồn nước (Stk 27, 9; Xh 26, 7; Lv 1, 10; Mt 25, 32; Ga 10, 1-12).
Cuộc sống của người mục tử ít có thay đổi giữa thời ông Abraham và thời của Đức Giêsu. Người chăn chiên dẫn dắt đàn chiên mình, biết rõ từng con chiên và trông chừng chúng cả ngày lẫn đêm (Ga 10, 1-6). Những hàng rào bằng đá dùng làm chuồng chiên không ngăn được kẻ trộm hoặc thú dữ (sư tử, báo, chó sói, linh cẩu, chó rừng, rắn và bọ cạp). Người bảo vệ đàn chiên mang theo một cây gậy đầu cong để bắt lại những con cừu chạy trốn và một cây gậy nữa để làm vũ khí. Nếu một con chiên bị đánh cắp, người chăn chiên phải đền cho ông chủ. Nếu nó bị dã thú xé nát thì phải đưa ra bằng chứng! (Xh 22, 12-13) Cừu và dê, giống như bò ở những nơi khác, là những yếu tố thiết yếu trong hoạt động kinh tế nông nghiệp.
Nhưng nghề chăn chiên, giống như nông nghiệp, cũng có những thách thức và khó khăn ở một đất nước mà hầu hết thời gian trong năm bị hạn hán và bạn phải đối mặt với những cơn gió đông mạnh (gọi là sirocco) hoặc gió nam (được gọi là hamsin) có thể gây ra bão cát, hành sốt và làm nhức đầu... trong mọi nghĩa của từ này. Công việc chăn chiên đòi hỏi sự giám sát và cảnh giác cao độ để bảo vệ đàn chiên khỏi sự xâm lăng của châu chấu, kẻ trộm hoặc quân địch.
Trong Thánh Kinh, Thánh Vịnh 23, thường được sử dụng trong các lễ an táng, trình bày Chúa là mục tử của dân Israel khiến họ không sợ nguy cơ nào: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trên đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ …” (Tv 23, 1-2)
Các trình thuật trong Tân Ước cũng coi Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Con chiên đáp lại một cách tin tưởng khi được gọi tên và từ chối đi theo bất kỳ ai khác (Ga 10, 1-18). Các ngôn sứ, tư tế và vua chúa bị dân chúng coi là những kẻ chăn chiên thuộc cấp, thường bất trung (Is 56, 11). Trong các văn bản Tân Ước, các trưởng lão và giám mục, giống như Đức Giêsu Mục tử, được khuyến khích chăm sóc đàn chiên. Chẳng phải Đức Kitô đã nói với Phêrô rằng: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” đó sao (Ga 21, 16)?
Vào thời Đức Giêsu
Vào thời Đức Giêsu, hoạt động chăn chiên vẫn chiếm một vị trí thiết yếu trong xã hội. Rất có thể, những người chăn cừu đã bắt đầu nuôi những con cừu có đuôi to, mập và bộ lông dày và chỉ có con đực mới có sừng. Những con vật ngoan ngoãn này hoàn toàn không có khả năng tự vệ và chống lại những kẻ săn mồi trong môi trường sống của mình. Khi đàn dê leo lên sườn núi đá lởm chởm, đôi tai dài và thòng xuống của chúng dễ dàng bị mắc, vướng vào những bụi gai! Một trong những khó khăn thường xuyên của công việc là dạy chiên và dê vâng lời... Tối đến, người chăn chiên đếm đàn gia súc của mình và kiểm tra xem chúng có mạnh khỏe không. Vào buổi sáng, anh gọi chúng và chúng theo anh ra đồng cỏ. Đến giữa trưa, anh đưa chúng đến nguồn nước để giải khát.
Mỗi gia đình Israel đều có mảnh đất riêng, các con trai cũng như gái, có phận sự chăn dẫn đàn gia súc của gia đình - thường là cừu và dê. Mỗi hộ gia đình, dù đạm bạc, đều có đủ tiền để mua hai con chiên con cho Lễ Vượt Qua. Một con bị giết để ăn thịt, con còn lại trở thành thú cưng của bọn trẻ và cung cấp len làm quần áo cho chúng. Trong số những người nghèo, không có chuồng gia súc, và chiên con thường ngủ với bọn trẻ và thậm chí có thể ăn từ chén bát của chúng (2 Sm 12, 3). Vào cuối mùa hè, nó bị giết và thịt được bảo quản với mỡ lấy ở cái đuôi.
Hầu hết các gia đình đều có ít nhất một con dê để cung cấp sữa, một phần được dùng làm pho mát. Nguyên tắc làm phô mát dê khá đơn giản: sau khi lấy sữa, nó được đun nóng một chút và thêm vài giọt nước ép trái vả để kích hoạt quá trình đông tụ. Sau đó, đổ sữa ấy vào một loại vải thưa để tách kem ra khỏi váng sữa, một quả bóng phô mát nóng đã được hình thành (hơi giống một viên phô mát mozzarella), sẵn sàng để thưởng thức! Thật tuyệt, món phô mát dê này ăn kèm với bánh mì pita nóng rắc zaatar (gia vị làm bằng húng tây và hạt vừng), thêm một ít dầu ô liu…
Vai trò người chăn chiên
Trong các trình thuật Kinh thánh, người chăn cừu cơ bản là người chăm sóc các loài động vật. Abel sở hữu một đàn gia súc (Stk 4, 2) và các tổ phụ (Abraham, Isaac, Giacóp) là những người chăn chiên. Họ là những người du mục hoặc bán du mục, sống trong lều, chăn thả những đàn gia súc lớn nhỏ từ nơi này sang nơi khác. Những chủ nhân gia súc giàu có khác sống trong các thị trấn, trong khi những tôi tớ của họ chuyển từ đồng cỏ này sang đồng cỏ khác cùng với đàn gia súc.
Ngoài ra còn có người chăn chiên định cư, đi ra ngoài vào buổi sáng cùng đàn chiên của mình và đưa chúng về chuồng vào buổi tối. Người ta thường giao gia súc cho con trai, con gái hoặc người làm thuê. Chủ nhân yêu cầu người chăn chiên phải đến bất kỳ con vật nào bị mất (Stk 31, 39), nhưng luật Môise miễn cho người làm thuê khỏi nghĩa vụ này, nếu anh ta chứng minh được rằng việc mất mát không phải là hậu quả của sự chểnh mảng (Xh 22, 9- 12).
Sáng sớm, người chăn chiên đến chuồng gia súc gồm có nhiều đàn và gọi đàn của mình ra. Con chiên nhận ra tiếng anh và đi theo anh. Chiên của người chăn chiên khác không chú ý đến anh ta. Người chăn chiên dẫn đàn của mình ra đồng cỏ, ở đó cả ngày, đôi khi cả đêm (Lc 2, 8), bảo vệ chúng khỏi thú rừng hoặc kẻ cướp, ngăn chặn đàn cừu lơ đểnh ăn sang đất canh tác, tìm kiếm những con đi lạc và đưa nó về (Êd 34, 12). Anh chăm sóc những con yếu sức (Dcr 11, 9). Mỗi con đều có một cái tên và đáp lại tình cảm của người chăn chiên. Ngày nay điều này vẫn còn xảy ra ở phương Đông.
Dụng cụ của người chăn chiên
Người chăn chiên mang theo một chiếc túi đựng lương thực dự trữ như bánh mì, dầu ô liu, trái cây khô và pho mát. Anh cũng mang theo một chiếc gậy ngắn, một loại vũ khí phòng thủ, đầu gậy phình lên có gắn một mảnh đá sắc nhọn. Anh còn có một con dao, một cây gậy chống để đi hoặc leo trèo, một bầu khô đựng nước, một chiếc gàu bằng da có thể gấp được để múc nước từ giếng sâu, một chiếc ná bắn đá nhằm tránh đàn chiên xa đàn hoặc để xua đuổi thú hoang và cuối cùng là một cây sáo để giải trí hoặc trấn an gia súc.
Trong trường hợp thời tiết xấu, người chăn cừu quấn mình trong chiếc áo khoác. Cây trượng cho phép anh dẫn dắt đàn, tập hợp và bảo vệ đàn. Đôi khi anh được sự hỗ trợ của những chú chó, đi lảng vảng phía sau đàn trong khi người chăn chiên ở phía trước, chúng sủa để báo hiệu mối nguy hiểm (G 30, 1). Nghề chăn chiên cừu tuy không có tiếng vang gì nhưng vẫn được tôn trọng; những mục tử tốt là những người chăm chỉ, đáng tin cậy và can đảm, thậm chí liều mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên.
Hỡi cô chăn chiên, cô từ đâu đến?
Một câu hỏi làm tôi băn khoăn: Còn các cô gái chăn chiên thì sao? Liệu trong một xã hội gia trưởng, các cô có thể làm người chăn chiên không? Có vẻ như ngay từ khi còn rất nhỏ, các cô gái nông thôn, thường là dân du mục, đã chăm sóc đàn gia súc như trong các xã hội truyền thống ngày nay, đặc biệt là ở người Bedouin. Rachel (Stk 29, 9), người sau này là vợ yêu quý của Giacóp, chắc chắn là người chăn cừu nổi tiếng nhất trong Kinh thánh. Rachel (tiếng Hípri là רָחֵל - raḥel) cũng có nghĩa là “chiên con” hoặc “cừu con”. Hiện đại hơn, chẳng phải có các “nữ mục sư” (pasteures) trong một số Giáo hội Tin Lành sao?
Vào thời Kinh thánh, nhu cầu bảo vệ các cô chăn chiên có lẽ bắt nguồn từ luật miễn trừ mọi trách nhiệm cho người phụ nữ nếu cô ấy bị một người đàn ông tấn công ở quá xa làng vì tiếng kêu cứu của cô ấy không thể được nghe thấy (Đnl 22, 25-26). Ngược lại, tôi vẫn còn một số nghi ngờ về người nữ chăn chiên trong sách Diễm ca (1, 8), dường như cô đang có mối tình đẹp nào đó trong đầu khi người ta nói với cô rằng: “Này hỡi trang tuyệt thế giai nhân, nếu quả nàng không biết, thì hãy ra đi theo vết chân đàn cừu, mà dẫn dê con của nàng đi ăn quanh các lều của các anh chàng chăn chiên”.
Ngày nay...
Ngay cả ngày nay, trong Giáo hội Công giáo, các linh mục vẫn được các tín hữu coi là “mục tử”. Cũng cần nói rằng các giám mục - bao gồm cả giáo hoàng, giám mục Rôma - luôn đi trong các cuộc rước phụng vụ, cầm trên tay cây gậy mục tử (crosse), là biểu tượng tuyệt vời của sứ mạng mục tử mà các ngài thi hành giữa các tín hữu của mình. Chẳng phải chúng ta cũng gọi lãnh đạo các Giáo hội Tin Lành là… những mục sư, nữ mục sư sao? Hơn nữa, cách đây không lâu, các linh hoạt viên về đời sống thiêng liêng trong các trường học và giáo xứ đã tự giới thiệu mình là những tác viên mục vụ (agents de pastorale) sao. Đây cũng là những thực tế đưa chúng ta trở lại hình ảnh người mục tử, người mục tử có nhiệm vụ “chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ” (1 Pr 5,2).
Ngay cả khi đối với chúng ta ngày nay, hình ảnh người chăn chiên có vẻ quê mùa, hoa đồng cỏ nội và đúng hơn chỉ liên quan đến nông thôn trong quá khứ, nhưng nó vẫn mang tính thời đại và hoàn toàn phù hợp trong chừng mực nó mời gọi sự hiệp nhất chứ không phải phân tán hay chia rẽ trong các Giáo hội Kitô giáo. Một lời mời gọi các vị mục tử hãy… hiến mạng sống mình cho đoàn chiên được giao phó cho mình.
Tác giả: Lina Dubois
Phụ tá Giám đốc, Trung tâm Kinh Thánh Har’el
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Parabole, Juin 2024, Vol. XL, no 2, tr. 4-6
Nguồn: gpquinhon.org