TRUYỆN LẠ THÁNH THỂ Tập 1 (20-22)
20. ĐÃ CHẾT, VẪN LO CHO CON
Truyện lạ Mình Chúa dưới đây xảy ra ở vùng Mosbach, bang Baden, nước Đức. Cha sở Metzvon Allfeld là vai chủ chốt trong chuyện này. Chúng ta kính cẩn nghe chính ngài tường thuật:
Từ ngoài bước vào nhà xứ, phía tay trái, phòng đầu tiên là phòng tôi. Bước vào phòng rồi, phía trái là hai cửa sổ mở ra phía đường đi. Ban đêm, hai cửa này bao giờ cũng đóng. Phía phải, hai cửa sổ khác, đêm ngày hầu như bao giờ cũng mở. Qua hai cửa này, có thể nhìn thấy cái đồi phía xa xa. Giữa nhà xứ và cái đồi là cái thung lũng. Những đêm có trăng, ánh trăng giọi vào phòng qua hai cửa sổ, coi thật dịu dàng, nên thơ...
Dọc hai bên tường, vẫn từ cửa phòng tôi, bên phải là kệ sách; trước mặt là bàn giấy, tủ áo, tường ngủ. Nằm trên giường ngủ, tôi có thể quan sát, nhìn thấy mọi sự trong phòng, nhất là cửa ra vào và kệ sách. Tôi rất chú trọng việc chuẩn bị các trẻ em Rước lễ bao đồng.
Mấy chục trẻ nhỏ, nói chung, tôi chấm được cả, trừ một em duy nhất, tên là Veltin Mueller, con ông Johann Mueller. Ông là là một tín hữu tốt. Nhỏ Veltin cũng nết na, tốt lành, chỉ phải tội tâm thần không bình thường. Tôi đã thử đi thử lại nhiều lần và xác tín, không nên cho em rước lễ lần đầu với các trẻ khác, dịp lễ Phục-sinh sắp tới.
Tôi cho kêu ông Johann Mueller tới, thành thực cho ông biết lý do tại sao Veltin không thể rước lễ với các trẻ khác vào dịp lễ Phục-sinh nay mai. Nghe biết sự thể, ông Mueller buồn lắm.
Một hôm, suốt cả ngày giúp đám trẻ, rồi chạy vạy nhiều công việc, tôi thấm mệt, nên mới 9:30 đã đi ngủ, sớm hơn thường lệ nửa giờ. Đêm hơi lành lạnh. Mặt trăng rằm tỏa sáng dịu dàng chiếu vào phòng tôi. Ngủ được một chập, tôi giật mình thức, nghe có tiếng chân người bước thình thịch, vội vàng, từ ngoài đường tiến về cửa nhà xứ Tiếng chân tiến dân đến sát cửa nhà. Tôi nghe rõ tiếng chân phủi bụi, rồi tiếng tay rờ bấm chuông. Tôi cứ nằm yên, bụng bảo dạ, chắc có người tìm tôi đi giúp kẻ liệt khẩn...
Thường thường những trường hợp như vậy, thì bà quản gia ra mở cửa, nhận khách, rồi báo tin cho tôi.Tôi hơi lạ, đợi một hồi lâu mà không thấy mở khóa, mở cửa. Cũng không thấy bà quản gia đến báo việc gì cả. Cả nhà đều yên tĩnh. Tôi đang suy nghĩ, thì nghe rõ gần có tiếng chân bước tới. Không gõ cửa chi hết, mà cửa tự động mở ra: một người đứng ngang trước cửa phòng tôi. Tôi bật ngồi dậy, sợ hãi, hỏi: “Ai đó? Có truyện gì vậy?”
Người lạ trả lời: - "Thưa cha, con có một điều muốn xin cha".
Nhờ ánh trăng chiếu vào, lại nhìn bộ đồ quen thuộc, tôi nhận ra người lạ đó là ông Johann Mueller, bố em bé Veltin. Tôi đáp lại:
"Ông muốn xin gì? Mà sao lại tới vào giờ giấc này? Không kêu bà quản gia, không gõ cửa chi hết, làm tôi hết hồn! "
Ông ta trả lời: "Thưa cha, xin lỗi cha, con xuất hiện quá đột ngột vào giờ phút này. Thời giờ gấp rút quá. Con xin cha một ơn: cho đứa nhỏ của con được rước lễ bao đồng với các trẻ khác vào Chúa nhật Phục-sinh tới. Điều đó cần lắm. Nó sẽ vĩnh biệt đời này chỉ ít ngày sau đó."
Lúc này tôi mới để ý: ánh trăng chiếu vào người ông ta mà không thấy ông ta ngả bóng. Lại nữa, ông đứng chắn đó mà tôi vẫn thấy cửa phòng và kệ sách như thường. Tôi nhắm mắt. Bắt đầu run. Chưa kịp đáp lại ông ta, thì ông ta lặng lẽ rút lui ra cửa êm ru, biến đi nhẹ nhàng như cái bóng ma. Nhưng tôi còn nghe rõ tiếng chân bước ra khỏi nhà, dẫm trên đá sỏi loạt soạt, rồi nhỏ dần, mất hút về phía thôn trước nhà xứ. Cho đến mai sớm, tôi không thể nào chợp mắt được nữa. Hình ảnh ông Mueller - bố em Veltin - cứ chập chờn trong đầu óc tôi.
Mai sớm, 6 giờ sáng, ông từ kéo chuông-nhật-một như mọi khi. Liền ngay đó, kéo chuông báo tử. Tôi mớ cửa nhà xứ đi làm lễ. Để ý quan sát, thì thấy then cửa, khóa, then gài, tất cả mọi sự đều đâu vào đấy. Không một vết tích gì khác thường. Vừa tới phòng thánh, ông từ đưa tin ông Mueller trước nửa đêm đã qua đời bất thình tinh.
Theo lời ông yêu cầu, tôi lo chỉ bảo riêng cho Veltin và đến lễ Phục-sinh em cũng được rước lễ như các trẻ khác. Sau lễ chưa đầy ba ngày, em qua đời thật, như lời ông bố đã nói với tôi.
21. QUÂN "GIU DÊU!"
Đệ Nhất Thế-chiến 1914-1918 đã làm tiêu ma gia tài ba má tôi cũng như một số các gia đình Ba-lan. Là sinh viên, muốn tiếp tục việc đèn sách, tôi phải tìm việc phụ, kiếm tiền thêm. Một người bà con giới thiệu tôi với một bà Do-thái sang trọng. Bà này đang cần một giáo viên tư, kèm cho đứa nhỏ con của bà sắp đến kỳ thi lên lớp. Em nhỏ tên Daniel, mười hai tuổi. Thầy trò hiểu nhau, quý mến nhau. Khi thì tôi đến nhà Daniel, khi thì ngược lại.
Một hôm, tôi đến nhà Daniel, thấy Daniel cầm một quyển sách kinh bằng tiếng Do-thái, song song với bản dịch Đức ngữ. Tôi lật đi lật lại, đọc qua. Sách kể truyện tiên tri Jona với thành Ninivê. Nhiều chỗ không được đúng. Tôi trao lại sách cho Daniel, nói: "truyện kể nhiều chỗ sai".
Daniel mở to đôi mắt hỏi tôi: "Sao lại sai? Sách kinh Do-thái sai? còn sách kinh bên '!Chúa" của thầy thì sao?"
Rồi Daniel bắt đầu tấn công, hỏi tôi đủ mọi điều về bên "Chúa", về "Đức Jesu'. Lúc đâu, tôi còn thủng thẳng, kiên nhẫn trả lời. Sau thấy Daniel cứ hỏi hoài, hỏi mãi, tôi bảo nó:
"Daniel, việc của em là lo học, mùa thi cử đến nơi rồi. Lúc này, em chưa nên bận tâm nhiều về bên "Chúa", về "đức Jesu'. Mà chắc, chẳng bao giờ em theo "Chúa" đâu!"
Daniel làm thinh được vài phút. Rồi lại tấn công hỏi tôi. Dù bị la rầy, Daniel nhất định không tháo lui, cho tới lúc tôi hứa: "Được, hôm nào tiện, tôi sẽ đưa em thăm nhà thờ bên "Chúa". Tôi hẹn ngày 7 tháng 5 (1918) là ngày lễ kính thánh Giám mục Balan là Stanislaus.
Đúng ngày hẹn, Daniel đến kiếm tôi. Hai thầy trò đưa nhau lên nhà thờ trên đồi Warvel. Dọc đường, mỗi khi gặp tượng Chúa hoặc Đức Mẹ, hay các đài kỷ niệm, tôi đều giảng giải cho Daniel. Khi tới thánh đường, chúng tôi vừa bước vào, thì nghe tiếng chuông gióng Linh-mục dâng Mình Thánh Chúa. Tôi đứng lại, kính cẩn cúi đầu thờ lạy Mình Chúa. Rồi suy tính: tôi phải nói gì bây giờ với Daniel?
Tôi quay lại nhìn Daniel, thì: Daniel đang quỳ dưới đất, mặt trắng bạch, mắt nhìn chòng chọc vào một điểm vô hình, toàn thân phản ảnh một cái gì huyền bí, siêu thoát.Tôi bối rối, lại gần, đập nhẹ vào vai Daniel, hỏi: "Daniel, Daniel! em đau sao? Daniel bất động.
Không trả lời. Tôi có cảm giác như Daniel đang lạc vào một thế giới khác... mặt mũi Daniel cứ bừng lên, hân hoan, thánh thoát khác thường, hai môi mấp máy như đối thoại với một người vô hình nào đó. Tôi ghé tai sát miệng Daniel nghe, nhưng không hiểu em nói tiếng gì và nói những gì, nói với ai? Tôi lúng túng, chưa biết phải xử trí ra sao, thì mấy bà gần đó nhìn chúng tôi có vẻ tò mò, rồi một bà thưởng ngay cho một câu đau đớn:
- “Quân Giu-dêu' mà..” Sau mấy phút, Daniel đứng dậy, như không còn biết gì đến tôi nữa. Em đi thẳng đến bàn thờ thánh Stephan Bathory, nơi có nhà tạm để Mình Thánh Chúa. Daniel lại quỳ gối trước nhà tạm, lâu tới 15 phút, mặt mũi vui tươi, siêu thoát, nhìn đăm đăm vào nhà tạm. Tôi cứ để nguyên, không muốn và không dám phá Daniel. Tôi hơi lo ngại, tự hỏi: không chừng thằng nhỏ bị loạn trí, hay biết đâu được Chúa hiện ra?
Tiếp đó, Daniel chạy lại tôi. Mỉm cười, ra hiệu muốn về. Trên đường về, Daniel có vẻ đăm chiêu, không truyện trò, hỏi han hay chú ý đến gì khác nữa. Tôi cẩn thận, lựa lời hỏi Daniel truyện gì đã xảy ra. Nhưng Daniel tránh né, chỉ nhắc đi nhắc lại mấy lời đầy say sưa, trìu mến:
"Chúa Jesu tốt lành vô cùng, Chúa Jesu xinh đẹp vô cùng".
Mỗi khi Daniel nói đến tên "Jesu' thì mặt em lại sáng rực lên. Thú thật, lúc ấy tôi chưa rõ đầu đuôi gì hết, nhưng cái vẻ hân hoan, siêu thoát của Daniel cũng đã ảnh hưởng không ít đến đời sống nội tâm của tôi.
Tôi tiếp tục giúp Daniel. Rồi một hôm, Daniel bất ngờ nói với tôi:
- Em muốn theo bên Chúa, xin tôi giúp học biết về Chúa, nhất là xin tôi rửa tội cho em.
Tôi la Daniel. Bảo em đừng giỡn. Hãy lo học tập. Thi cử đến nơi rồi. Daniel tỉnh bơ, đáp lại:
- "Em không cần thi cử chi nữa, ngày 8 tháng 9 này, em sẽ vĩnh biệt thầy. Nhưng trước đó, bằng giá nào, em phải được rửa tội".
Tôi đáp lại: "Ôi, công-tử, đời cậu còn dài!" Vả nữa, rửa tội hay không, cậu phải lĩnh ý má cậu trước đã".
Rồi tôi bắt Daniel tiếp tục học, không mất thời giờ cho những câu truyện ngoài đề đó.
Gần hết năm học, tôi nói thẳng cho má Daniel biết, Daniel chưa thể thi lên lớp được. Tốt và chắc hơn, hãy để sau kỳ hè.Tiếp đó là nghỉ hè. Tôi và Daniel một thời gian không gặp nhau. Thình lình, ngày 7 tháng 9, má Daniel đến gặp tôi. Tôi nghĩ ngay trong bụng, chắc bả lại đến xin tôi tiếp tục giúp Daniel, nên chưa kịp chào hỏi, tôi đã tỏ vẻ ái ngại, không mấy thiện cảm. Nhưng bà nói đầy vẻ âu lo: "Daniel đau, em năn nỉ xin gặp thầy".
Tôi bất thần nhớ lại lời Daniel: ngày 8 tháng 9, em sẽ vĩnh biệt tôi.
Chiều hôm đó, tôi tới thăm Daniel. Daniel nằm trên giường, không có vẻ chi đáng lo ngại. Không ai có thể nghĩ là ngày hôm sau Daniel sẽ qua đời. Má Daniel còn nói với tôi: "Sáng nay bác sĩ có tới thăm, ông cho biết không có chi đáng lo ngại cả.
Đang lúc trong phòng chỉ còn Daniel và tôi trao đổi câu truyện, Daniel năn nỉ thật thiết tha:
-Thưa thầy, bây giờ xin thầy rửa tội cho em. Giờ phút chót đời em tới nơi rồi. Xin thầy rửa tội gấp. Sau đó, em còn có điều bí mật muốn nói với thầy.
Tôi vẫn còn lưỡng lự, phân vân, sợ nhất là má Daniel biết được nội vụ sẽ nổi cơn tam bành.Tôi còn đang lưỡng lự, thì chẳng biết sức mầu nhiệm nào rứt Daniel ra khỏi giương, em quỳ xuống đất, nói:
“Thưa thầy, xin thầy rửa tội cho em, em sẽ không nói gì với má đâu. Ngày mai, giờ này, em sẽ vĩnh viễn im luôn, hết còn nói gì nữa.”
Tôi lấy nước, rửa tội cho Daniel. Daniel lộ vẻ hân hoan, vui sướng ngoài sức tưởng tượng. Không đợi tôi hỏi, em đã nói:
"Hôm trước, đi nhà thờ với thầy ở trên đồi, em thấy Chúa Jesu trong Bánh Thánh. Người nhân hậu quá sức, xinh đẹp vô cùng. Thấy Người, em sung sướng muốn chết ngay. Không thiết sự gì trên mặt đất này nữa. Người nói với em, ngày 8 tháng 9, sau 5 giờ chiều, em sẽ về với Người. Nhưng trước đó, em phải chịu phép rửa tội đã.”
Tôi nghe Daniel nói, mà tâm can thấy thấm thía dạt dào. Nhưng không thể nào tin được, ngày mai Daniel sẽ không còn trên mặt đất này nữa. Trước khi ra về, tôi hẹn ngày mai sẽ trở lại thăm em. Hôm sau, gần 5 giờ chiều, má Daniel lại đến kiếm tôi, có vẻ lo âu, thiểu não. và nói:
- "Daniel xin gặp thầy gấp, có truyện cần kíp chi đó".
Tôi vội vàng đi ngay. Vừa thấy tôi, Daniel mặt mày đượm vẻ siêu thoát, mỉm cười, bình thản nói: thưa thầy, chỉ vài phút nữa là con vĩnh biệt thầy, như Chúa Jesu đã nói với con và con cũng đã thưa với thầy.
Tôi sửng sốt đáp lại: "Nếu thật như vậy, thì Chúa Giêsu sẽ xách cổ em lên trời thẳng băng, mà xin em cũng đừng quên thầy" - 'Dạ", "Dạ',
Daniel mới đáp lại được mấy tiếng đó, thì nghẹo cổ về một bên, tươi tỉnh thở hắt một cái, tôi còn nghe được rõ ràng ba tiếng cuối cùng "Jesu yêu mến"...
Daniel đã vĩnh biệt thế trần bụi-bậm này, đúng giờ, đúng ngày, như Chúa Thánh-thể đã cho em biết hôm ở nhà thờ trên đồi. Lại còn được diễm phúc về trời vào ngày lễ Sinh-nhật Đức Mẹ nữa.
(Jugend-sendbote, November 1929, Feldkirch)
22. KHỎI BỆNH SAU CHỊU LỄ
Anne de Clery, từ hồi 14 tuổi, cứ đau lên đau xuống hoài. Má cô - một người mẹ đạo đức, can đảm, nhưng cũng chẳng khỏe mạnh gì hơn cô - buộc lòng phải đến trường dòng ờ Metz đón Anne về, vì lý do tình trạng sức khỏe của cô càng ngày càng tệ. Anne bằng lòng lãnh nhận mọi thánh giá Chúa gửi đến. Không một lời kêu ca, than trách. Cô còn nói, cô xin dâng lên Chúa mọi bệnh tật, khổ đau, để xin cho má cô được khỏe mạnh, là điều cần thiết hơn cho cả gia đình.
Anne về nhà đã mấy năm. Hai chân càng thêm tê liệt. Đầu gục xuống, không ngẩng thẳng lên được. Các bác sĩ đã tận dụng mọi phương cách điều trị, nhưng bệnh tình chẳng bớt. Từ năm 1858, ngoài chứng tê liệt, Anne còn bị thêm chứng co rút, hai chân cô bây giờ quặp hẳn lại phía sau. Đứng lên không được. Nằm hoặc ngồi đều khó khăn, đau nhức.
Năm 1865, nhân ba ngày chầu lượt 12, 13, 14, tháng 6, ở nhà thờ giáo xứ, gần nhà Anne, cô xin má và bà con giúp đưa mình đến nhà thờ để được thờ lạy chầu Chúa và dự lễ. Phải mất bao nhiêu khó khăn, vất vả, mới có thể đưa Anne tới nhà thờ, vì ngoài những chứng bệnh kể trên, cô còn bị đau đầu như búa bổ, nhiều lần cô phải lấy tay bịt chặt miệng lại cho khỏi la lên.
Ngày 24 tháng 6 (1865), thứ tư trong tuần, Anne mừng sinh nhật 23 tuổi tròn, đồng thời được diễm phúc rước Chúa. Cô kêu xin Chúa Thánh-thể cũng những lời cô đã kêu xin mấy ngày rồi, trước Thánh-thể đặt trong Hào Quang: "Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, xin cho con được lành mạnh."
Rồi cô nhắm mắt. Ngất đi. Cô mở mắt ra. Lại kêu cầu:
"Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, xin cho con được lành mạnh. Hoặc, nếu Chúa muốn con cứ nằm hoài trên giường bệnh cho tới hơi thở cuối cùng, thì xin Chúa ban cho con ơn nhẫn nại, bằng lòng tuân theo ý Chúa".
Cô lại nhắm mắt. Lại ngất đi. Rồi mở mắt ra. La lên đau đớn. Rồi Anne co duỗi chân tay. Bò dậy. Quỳ hai gối, nói lớn: "Hãy cầu nguyện! Hãy cầu nguyện! Tôi được lành mạnh rồi?"
Anne được khỏi bệnh thật. Ngay trước mặt mọi người: Anne đứng lên, quỳ xuống, đi lại: lúc đầu còn khó khăn chút ít, nhưng rồi chỉ nửa giờ sau Anne đi lại như thường.
Mọi người ngạc nhiên, phấn khởi, mừng rỡ, ca hát tung hô Chúa Thánh-thể đã làm những việc kỳ diệu. Anne sung sướng, hớn hở, về nhà với mẹ. Ở với mẹ 2 năm, cô giã từ mẹ, vào dòng, để tạ ơn Chúa và được trọn đời hoàn toàn thuộc về Chúa.
(Còn Tiếp)