TRUYỆN LẠ THÁNH THỂ Tập 1 (23-25)
23. MỌI NGƯỜI ĐƯỢC NHÌN THẤY CHÚA
Balan, quê hương của Đức Giáo Hoàng Johann Paulo II, nổi tiếng là một dân tộc mộ đạo, nhất là có lòng sùng kính Đức Mẹ. Quốc gia này có thói quen tốt lành, đặt Mình Thánh Chúa, chầu suốt ba ngày đêm, trước khi vào mùa Chay Thánh, để đền tạ những tội lỗi, thiếu sót, người ta xúc phạm đến Chúa, trong những ngày Hội-hóa-trang ăn chơi, bừa bãi.
Ngày 18-2-1866, tại Dubno, một thị xã nhỏ, thuộc lãnh thổ Balan, nhưng lại dưới quyền kiểm soát của Nga-sô, xảy ra truyện lạ sau đây:
Ngày thứ hai, đang khi đông đảo tín hữu quỳ gối chầu Thánh-thể, từ Mặt Nhật tỏa ra một luồng ánh sáng dịu dàng, trong luồng ánh sáng xuất hiện hình Chúa Cứu Thế. Hiện tượng lạ lùng, hi hữu này, kéo dài gần hai ngày trọn. Không phải chỉ năm mười người được phước nhìn thấy Chúa, mà là hết mọi người đến chầu Mình Thánh. Không trừ một ai: người đạo đức, kẻ rối rắm, nhà trí thức, kẻ bình dân, người giàu sang, kẻ nghèo khó... Ai đến nhà thờ thờ-lạy Chúa, đều được diễm phúc nhìn thấy Người.
Khi Công-an địa-phương hay tin, một mặt: họ mời cha sở đến "làm việc". Sau đó, họ bá cáo về Chủ tịch Zitomir, lúc ấy là ông Czortkow. Một mặt: họ nghiêm cấm cha sở không được phổ biến truyện trên. Cha sở, sau khi gửi một bản tường trình đầy đủ về vụ trên lên tòa Giám mục, xin các giáo hữu đã chứng kiến việc lạ lùng, vì ích lợi chung, nên dè dặt, thận trọng tối đa trong việc phổ biến truyện lạ. Có người đặt câu hỏi: vì lý do nào Chúa Thánh-thể hiện ra lạ lùng, lâu dài như vậy?
- Ít nhất, chúng ta có thể thưa:
1) Chúa muốn khuyến khích những giáo dân đạo đức ra sức cầu nguyện cho những kẻ lạm dụng những ngày Hội-hóa-trang mà ăn chơi, phóng túng, để họ biết sống xứng đáng kẻ làm con Chúa;
2) tỏ lòng ưu ái của Người cho những kẻ, thay vì đi đây đó,
chơi bời, nhảy nhót, thì đến nhà thờ đọc kinh, cầu nguyện;
3) thêm lòng tin cậy, xác tín vào sự Chúa hiện diện trong phép Thánh-thể.
24. CHA ĐƯA MÌNH CHÚA CHO CON?
Trong tạp chí "Mater Nostra ' , một giáo sĩ truyền giáo lâu năm bên Nhật Bản ghi lại câu truyện cảm động sau đây:
"Tôi rất bồi hồi, cảm kích, mỗi khi nhớ lại lần sau cùng gặp Nakamura. Nakamura - một thiếu nữ Nhật, 18 tuổi - mới vào đạo được 4 năm. Chính tôi hân hạnh được rửa tội cho nàng. Tuy là giáo hữu tân tòng, Nakamura từ ngày vào đạo, hầu như không ngày nào bỏ đi lễ lúc 6:30 sáng và rước lễ.
Ngày 6.8.1945, Mỹ thả trái bom nguyên tử đâu tiên xuống Hiroshima. Cảnh tượng tàn phá thật là khủng khiếp. Đi đâu cũng gặp chướng ngại vật. Nực mùi chiến tranh, chết chóc...
Đã gần hai tuần không thấy Nakamura đi lễ, tôi đâm lo quyết định đi thăm nàng. Phải khổ sở, len lỏi mãi, mới tới được nhà nàng, thì, hỡi ôi! ngôi nhà đã sụp đổ tan tành, chỉ còn cái tường cao chừng 2 thước trơ trọi đứng đó . Tôi thổn thức vòng lại phía sau nhà.
Trời ơi! Một cái chòi thô sơ, 4 góc là 4 cái cột, chung quanh che bằng chiếu, mành, áo quần rách, trên nóc, mấy tấm tôn kẽm xiêu vẹo. Tôi bước vào trong.
Lạy Chúa! một cái chõng thô sơ, ọp ẹp: Nakamura nằm trên đó, áo xống tả tơi, cháy sém, hai tay hai chân co quắp như một xác chết. Mùi hôi thối bay ra. Trên chõng, dưới đất: máu mủ văng vãi, giòi bọ từng đoàn từng lũ bò ngang bò dọc. Tôi khựng lại. Không sao nói được một lời.
Sau một lát, tôi lấy can đảm gọi tên nàng. Nakamura nhúc nhích, nhưng không sao trở mình được. Nàng bị thương nặng quá: chân tay, mình mẩy, chỗ nào cũng thấy sây sất ở đầu vai bên phải, thịt xương cháy sám lòi ra, để một lỗ hổng, có thể đút lọt bàn tay.. Tôi xắn áo, lau chùi, dọn dẹp một chút, rồi giúp nàng xoay mình lại.
Nakamura mở hai mắt, nhìn tôi, tràn ra mấy giọt lệ, cạy cựa tay trái như muốn giơ lên chào tôi mà không giơ lên nổi. Nàng nói thì thầm:
"Xin Cha đưa Mình Chúa cho con."
Tôi xúc động quá sức, xót xa, cảm mến, chưa kịp trả lời nàng, thì nước mắt đã trào ra đầy má.
Sau ít phút trao đổi, tôi được biết: đã 14 ngày qua, trừ ra cha nàng - cũng bị thương nặng - mỗi ngày đem cho nàng chút ít đồ ăn, nước uống, còn ngoài ra chẳng ai lo lắng, chăm sóc nàng cả. Vậy mà, Nakamura không một lời kêu ca, than thở. Không kêu xin xót thương, giúp đỡ. Nàng như quên hết mọi đớn đau, ê chề, chỉ nhỏ nhẹ hỏi:
"Thưa cha, cha đưa Mình Chúa đến cho con không?"
Tôi nghẹn ngào, cảm kích cực độ. Nước mắt cứ thi nhau trào ra. Tôi trở lại nhà. Lấy Mình Chúa. Cho Nakamura rước lễ. Tôi nán ở lại, lau chùi, dọn dẹp thêm chút "cái biệt thự sang trọng" của nàng. Rồi ra về. Hẹn hôm sau sẽ trở lại và đem theo Mình Chúa. Nakamura nhỏ nhẹ nói với tôi:
"Thời buổi chinh chiến, loạn ly này, chừng nào mới hết? Đã 4 năm nay, cọn chuẩn bị vào dòng. Con muốn tận hiến đời con cho Chúa, muốn phục vụ hết mình những người khó nghèo, bệnh tật. Hiện giờ con thế này. Không biết Chúa sẽ dắt dìu con về đâu? Dẫu sao, ở đâu, đi về hướng nào, ra sao: Chúa là sức mạnh, là nguồn hạnh phúc, là tất cả cho con".
Hôm sau, tôi trở lại, mang theo Mình Chúa. Nhưng Nakamura đã về Trời với Bạn Chí Thánh. Không còn trên mặt đất khổ đau này nữa.
Cho tới ngày nay, tôi vẫn bần thần, thương nhớ Nakamura, không sao nguôi được. Đêm ngày tôi bị ám ảnh, suy nghĩ liên miên: một người tân tòng, mới chỉ vào đạo được mấy năm, hằng ngày đi lễ sáng và rước lễ. Bị tai nạn, cửa nhà tan nát, thương tích đầy mình, đớn đau tinh thần, thể xác, mà không một lời kêu ca, ta thán.
Gặp tôi Nakamura chỉ hỏi đến Mình Chúa. Lại nói với tôi những lời xây dựng, đầy ý nghĩa thần học. Tôi tự nhủ : ngoài trường "Thánh-thể" ra, không còn trường nào khác dạy được như vậy.
25. CHÚA CHỮA HAY ĐỨC MẸ CHỮA?
Cha sở Alois Kaiser, phụ trách Cộng-đoàn Wels (áo quốc), ghi lại, trong Tạp Chí Benediktus-Bote, do Đan-viện Michaelbeuern phát hành tháng 8 năm 1978, truyện dưới đây:
Mùa xuân năm 1938, một hôm, vào lúc chập choạng tối, tôi được mời đi giúp một bệnh nhân, ông tên là Franz Berger, 94 tuổi. Tôi mặc áo các phép, đeo giây Stola, mang trong mình Mình-thánh Chúa. Có ông Heppner - từ nhà thờ - tháp tùng, cầm đèn và cái chuông nhỏ. Thỉnh thoảng gióng lên, báo hiệu có Mình-thánh Chúa.
Ông Franz Berger là người công-giáo tốt. Lúc sinh thời, ông chuyên môn đi bốc hàng ở các nông trại lân cận (trứng, thịt, rau cỏ, trái cây) cung cấp cho các người tiêu thụ trong vùng. Nay ông đã cao niên, ốm yếu. Thân thể xác xơ, coi thật thảm thương. Sau khi đã giải tội, xức dầu, cho chịu Mình-thánh Chúa, chúng tôi còn đàm đạo với nhau một hồi. Tôi cáo từ. Định ra về. Mai sẽ trở lại thăm. Ông với tay tôi, kéo ngồi xuống, nói:
"Thưa cha, con biết mình sống không bao lâu nữa. Con muốn kể lại một câu truyện. Sau này, lúc nào tiện dịp, xin cha vui lòng phổ biến, để mọi người biết và tạ ơn Chúa cùng Đức Mẹ.
Hồi con lên 6 hay 7 chi đó, con bị mù một mắt. Sau một thời gian chạy chữa, bác sĩ cho má con hay: cả con mắt còn lại cũng đã trở chứng, không lâu nữa, con sẽ mù cả hai mắt luôn. Má con rầu lắm. Tuy nhiên, bà vẫn can đảm, khích lệ con: Mẹ con mình hết lòng kêu xin Đức Mẹ ở Potsch, xin Đức Mẹ ít là đừng để con mù cả hai mắt. Nếu Đức Mẹ nhận lời, mẹ con mình sẽ đi bộ hành hương đến tận Potsch tạ ơn Đức Mẹ.
Mới được mấy ngày, một hôm, tình cờ có toán hành hương cuốc bộ từ đền Đức Mẹ Scharten đến đền Đức Mẹ Potsch, đi qua nhà. Mẹ con mừng quýnh. Bà xin được nhập bọn. Bà lấy khăn bưng kín cả hai mắt con lại.
Rồi dắt con đi. Con như người mù tịt. Không còn biết trời đất, cảnh vật gì nữa. Hai mẹ con và toán hành hương cứ thủng thẳng cuốc bộ, hai ngày trường mới đến đền Đức Mẹ Potsch. Chúng con hết lòng thiết tha kêu xin Đức Mẹ cho con được lành mạnh. Mẹ con cho con uống nước suối. Bà còn lấy nước suối thoa đập vào hai mắt con.
Nhưng trước sao sau vậy. Chẳng thấy Đức Mẹ nhận lời. Má con không hề than thở, kêu ca. Bà chỉ nói:
“Chúa Mẹ muốn vậy, xin theo ý Người.”
Sau một ngày ở Potsch, mẹ con con cùng đoàn hành hương trở lui. Hai mắt con vẫn bị bưng kín. Bà mẹ vẫn cầm tay con, dắt đi. Khi về tới giữa đường, hôm đó là ngày thứ bảy, chúng con dừng lại ở nhà thờ thánh Martin, cạnh sông Donau. Mai sớm, Chúa nhật, chúng con vào nhà thờ dự lễ.
Con vẫn bị bưng hai mắt. Vẫn mù tịt. Không thấy gì cả. Nhưng tai vẫn nghe rõ ràng những kinh đọc hay khi người ta nói. Con dự lễ và theo thánh lễ, đến khi nghe cha trên bàn thờ đọc lời truyền Mình Máu Thánh vừa xong, con nghe có tiếng nhạc xa xa du dương vọng lại, trầm bổng lạ thường, đồng thời như có ai kỳ cọ nơi hai mắt con.
Con hết chịu nổi, lấy tay giật khăn bịt ra. Thì ôi, lạy Chúa, hai con mắt nhìn thấy rõ ràng nhà thờ, cha làm lễ, mọi người chung quanh, nhất là mẹ con đứng sát bên con, cảm động, run rủi khắp người. Hết mọi người sửng sốt, như từ trời rớt xuống. Sau lễ, cả cha sở cùng với không biết bao nhiêu người túm lại mừng mẹ con của con.
Rồi họ tặng quà bánh, không thiếu thứ gì.Truyện trò, hỏi han.Từ ấy đến nay, gần 90 năm rồi, hai mắt con vẫn lành mạnh, bình thường, như không hề đã có sự gì xảy ra.
Chúa Thánh-thể đã chữa con? hay Đức Mẹ đã chữa con? Tùy mỗi người nhận xét. Phần con, chỉ xin cha phổ biến sự lạ, để mọi người đều biết, cùng cảm tạ Chúa và Đức Mẹ và hết lòng tin tưởng, cậy trông Chúa và Đức Mẹ trong mọi trường hợp."
(Còn Tiếp)