TRUYỆN LẠ THÁNH THỂ Tập 1 (33-35 HẾT)
33. BÉ ANTONIO VỚI MÌNH CHÚA
Từ 1936 đến 1939, Tây-ban-nha trải qua một cuộc nội chiến khốc liệt. Nói đúng ra, như mọi người đều biết, đó chẳng qua chỉ là một cuộc Cộng sản nổi dậy cướp Chính-quyền và tàn sát Giáo-hội.
Vừa cưỡng chiếm Barcelona được mấy ngày, chiều ngày 18-7-1936, Cộng sản ngấm ngầm hạ lệnh triệt hạ, đốt phá tất cả các nhà thờ trong thành phố. Ai bén mảng đến các cơ sở đó, trừ ra các cán bộ và những người có phận sự (!), sẽ bị bắn tại chỗ. Rồi qua đài phát thanh, nguỵ-quyền ở Barcelona tuyên bố:
“Chính quyền đã giải quyết xong vấn đề Nhà thờ và Linh mục.Tất cả những tàn tích, cặn bã về tôn giáo, như ảnh tượng, xâu chuỗi, sách báo v.v... dân chúng phải triệt để dẹp hết. Ai tàng trữ, giấu giếm, nếu bắt được, sẽ bị trừng phạt nghiêm thẳng hoặc bị bắn tại chỗ.”
Những cuộc bố ráp, ruồng bắt, khám xét nhà cửa bất cứ đêm ngày, là truyện cơm bữa. Một số lưu manh, lợi dụng danh nghĩa Cách mạng, được dịp trả thù, mặc sức chém giết. Một số khác, nhờ cơ hội may, tha hồ vơ vét, làm giàu...
Một hôm, một toán Bộ-đội kéo đến thôn Almoda, gần ngay Barcelona. Vừa thấy nhà thờ, chúng reo hò, khoái chí. Xông vào nhà thờ, dứt ảnh tượng, xô đẩy đèn nến, cờ quạt, đập phá Nhà Chầu..., rồi khuân đủ thứ ra sân nhà thờ, chất thành đống..., reo hò, nhảy múa, nổi lửa đốt chơi.
Antonio, chưa đầy 6 tuổi, con một gia đình làm bánh mì, gần nhà thờ, lúc ấy vẫn chơi luẩn quẩn quanh đó. Em thấy tất cả những gì các ông Cách-mạng làm, nghe hết những lời la lối, chửi rủa, của toán quân. Đến chiều, toán quân phá phách, chơi giỡn thỏa thuê, rồi kéo nhau đi. Antonio tò mò đến chỗ cháy vụn nhìn xem.
Em thấy một tượng Đức Mẹ mất cả hai tay. Coi đi ngó lại, em lại thấy trong đống vụn có cái gì cứ lóe sáng lên, nhấp nháy. Em đến gần, bới ra một hộp bằng bạc, nhỏ, tròn. Mở ra thì trong thấy có vài Bánh-trắng-tròn. Em biết ngay là gì, vì em thường đi lễ, nhiều lần thấy cha cho rước lễ, hoặc những buổi đọc kinh chiều ở nhà thờ, đôi khi cha đặt Mình Chúa lớn để mọi người đọc kinh, ca hát... Em chạy vội về nhà, thưa ba:
"Ba ơi, ba ra coi Con tìm thấy Chúa ở đống vụn".
Ông bố chạy ra, nhìn kỹ, quỳ gối kính thờ Chúa, rồi nói với Antonio:
"Anton, vì con còn nhỏ, trong trắng, lại tốt lành, nết na, nên con được phép đụng đến Mình Chúa. Bánh bố làm ở nhà nuôi thân xác. Còn Bánh này đã truyền phép, là Bánh Thánh, là Mình Chúa, để nuôi linh hồn. Không biết cha sở còn sống hay bọn thổ-phỉ đã thủ tiêu rồi. Thôi, con cứ tạm đưa Mình Chúa về phòng con, giữ cho cẩn thận"...
Antonio vâng lời bố, cung kính đưa hộp Mình Chúa về phòng mình. Từ đó, Antonio ít đi chơi đây đó. Đêm cũng như ngày, hầu lúc nào cũng ở nhà, trong phòng, chơi hoặc ngủ.Thời gian kéo dài hai năm. Sang năm 1939, quân sĩ của tướng Franco toàn thắng. Kéo đến giải vây Almoda. Cha sở ở Almoda lẩn tránh đâu đó, cũng trở về. Được biết sự việc, ngài và một số giáo dân đến nhà Antonio, rước Mình Chúa về nhà thờ. Tờ Thông-tin Giáo-xứ (Bolletin Parroquial), ra ngày 29.10.1940, đăng tải tin sau đây:
"Cha sở đã xem xét rất kỹ lưỡng và khẳng định mấy Mình Chúa được giữ hai năm trời ở phòng bé Antonio vẫn còn nguyên vẹn, tinh tuyền. Sau ngày giải phóng Almoda, trong thánh lễ đầu tiên ở nhà thờ, cha sở đã chịu mấy Mình Thánh đó".
Tạp-chí Diano dễ Barcelona, phát hành ngày 29-10-1943, trong bài bình luận, phần kết, có những dòng: "Cộng sản thao túng mới chỉ có một phần Tây-ban-nha và chưa đầy ba năm, mà 13 Giám mục, gần 7.000 linh mục, Tu sĩ, Nữ tu, đã bỏ mạng.
Giáo dân thì vô kể. Qua đức tin, chúng ta được biết, trong mọi trường hợp: "Chúa vẫn là người chiến thắng - Giáo Hội sẽ bền vững đến cùng".
34. KHĂN THÁNH ĐẪM MÁU Ở BOLSENA
Một linh-mục người Đức, quí danh Petrus von Prag, sau một thời gian sống đời linh mục, tự nhiên đâm nghi về lời truyền Mình Thánh trong thánh lễ. Ngài bối rối tự hỏi: không biết xưa rầy mình có đọc đúng những lời truyền Mình Chúa không? Nếu đọc đúng, thì có thật Chúa hiện diện nơi bánh thánh với cả xác, hồn, nhân tính và thần tính không? Ngài cố xua đuổi những tư tưởng nghi ngờ ám ảnh đó, mà không sao dứt khoát được. Càng ngày ngài càng bối rối: nghi nan.
Năm 1263, ngài quyết định đi Roma viếng mồ hai thánh cả Phêrô và Phaolô, cầu xin hai thánh cả Tông đồ giải thoát mình khỏi điều ám ảnh, khổ tâm đó. Trên đường đi Roma, ngài dừng lại nghỉ đêm ở Bolsena (Ý). Sáng hôm sau, ngài dâng lễ ởVương Cung thánh đường thánh Christina.
Đến lúc bẻ bánh thánh, trước khi chịu lễ, ngài lại đâm nghi, bối rối. Ngài nhắm mắt, suy tư, cầu nguyện. Mở mắt ra, trời đất! Ngài giật mình, run rẩy: hai phần Mình Thánh ngài cầm trên tay, phần ở tay trái vẫn như thường, còn phần ở tay phải đã biến thành miếng thịt thật, có máu tươi chảy ra, rớt xuống khăn thánh kê dưới chén lễ, đếm được 25 giọt.
Lại càng lạ lùng hơn nữa: nơi mỗi giọt Máu Thánh, ngài nhìn thấy rõ ràng đầu Chúa Giêsu đội mạo gai. Cha Petrus quá bị giao động. Đứng yên như chết. Không sao tiếp tục thánh lễ được nữa. Sau một lát, ngài như tỉnh lại, vội vàng gói ghém tất cả vào Khăn-thánh. Cố làm vẻ thản nhiên, để không một ai hay biết gì về việc kỳ lạ xảy ra. Ngài về phòng thánh, giấu kỹ tất cả vào một hộc tủ, khóa lại cẩn thận. Không nói với ai một lời. Rồi ra đi.
Cần biết thêm rằng: dù cha Petrus đã gói kỹ lưỡng Mình Chúa vào Khăn Thánh, lúc cha đi vào phòng thánh, vẫn có mấy giọt Máu Chúa rớt xuống gian thánh và trong mỗi giọt đều có hiện hình đầu Chúa đội mạo gai.
Vào thời điểm xảy ra chuyện lạ lùng trên (1263), Đức Giáo Hoàng Urbano IV (+ 1264 đang có mặt ở Orvieto, (cách Roma chừng 13 cây số, không xa Bolsena bao nhiêu). Cha Petrus hối hả đến gặp ngài, kể lại đầu đuôi tự sự và xin Đức Thánh Cha ban ơn xá tội. Đức Thánh Cha liền phái Đức Cha Giacomo Maltraga là Giám Mục Orvieto, cùng với thánh Thomas tiến sĩ và thánh Bonaventura tới Bolsena rước Mình Chúa đã biến thành thịt và tấm Khăn Thánh về Orvieto cho ngài.
Ngày nay, Mình Chúa lạ lùng đó cũng như tấm Khăn Thánh vấy máu Chúa được quản thủ cẩn mật tại thánh đường Orvieto. Còn bàn thờ, nơi xảy ra truyện lạ lúc cha Petrus bẻ bánh, cũng như đất gian thánh, nơi Máu Chúa rớt xuống lúc cha Petrus đi về phòng thánh, được quản thủ tại nhà thờ Bolsena. Tại Vatican, có một bức họa tuyệt vời của họa sĩ Raffael, nhắc lại biến cố hi hữu này.
Trở lại truyện Đức Urbano IV, 1264)
Năm 1239, cũng một truyện lạ Thánh-thể xảy ra ở Dacora (Tây-ban-nha) . Hàng Giáo-phẩm Tây-ban-nha gởi một phái đoàn sang yết kiến Đức Thánh Cha Urbano IV (đang ở Orvieto) tường trình sự việc, xin Đức Thánh Cha phê chuẩn và ban ơn xá.Chỉ trong vòng hơn kém 20 năm (1239-1263), liên tiếp xảy ra mấy truyện lạ Thánh- Thể động trời, Đức Urbano cực kỳ cảm kích.
Ngài cầu nguyện, suy tính, bàn hỏi ý kiến Hội đồng Cố-vấn, rồi năm 1264 với Sắc-lệnh "Transiturus", Đức Thánh Cha thiết lập lễ Mình Chúa, hằng năm mừng vào ngày thứ 5 sau tuần Bát Nhật Hiện Xuống.
Qua dòng thời gian, các Đức Giáo Hoàng, trong đó phải kể nhất là: Đức Clemente VI (+1352), Đức Pio II (+ 1464), Đức Gregorio XIII (+ 1585), đã ra Sắc-chỉ xác nhận truyện lạ Thánh-thể kể trên.
Ngày 11-8-1964, Đức Phaolo VI ( + 1978) cũng thân hành đến Orvieto mừng trọng thể 700 năm (1264-1964) thiết lập lễ Mình Thánh. Dịp đó, Ngài đã nâng đền thờ Bolsena lên hàng Tiểu-vương-cung Thánh-đường. ("Orvieto e Bolsena il relazioni ai Corpus Domini ', Cenni storici e critici Orvieto 1956).
35. BA MƯƠI LĂM NĂM KHÔNG ĂN, KHÔNG UỐNG
Therese Neumann (1898-1962) - một phụ nữ Đức được in 5 Dấu Thánh - là một trong ba vụ lạ-lùng-nhất về truyện lạ Thánh-thể trong thế kỷ 20 này. Hai vụ kia: Cha Pio Năm Dấu (+1968), người Y, và bà Martha Robin (+ 1982), người Pháp . Therese Neumann là chị cả trong một gia đình 11 đứa con. Cho đến 20 tuổi, Neumann đi làm mướn kiếm tiền giúp cha mẹ. Ước vọng của Neumann là làm y-tá, đi giúp các xứ truyền giáo bên Phi châu.
Năm 1918, nhân một vụ hỏa hoạn, Neumann mắc nạn, vừa bị mù vừa bị bất toại. Neumann đặc biệt ngưỡng mộ thánh Thérèse Nhỏ (1873-1897), đã được vị thánh này báo đáp bội hậu như sau: a/ ngày 29-4-1923, dịp phong á Thánh cho Thérèse Nhỏ, Neumann bất thần được khỏi mù; b/ ngày 17-5-1925, dịp tôn phong Thérèse Nhỏ lên bậc Hiển Thánh, Neumann lại bất thần được khỏi bất toại.
Tháng 7 năm 1940, ngày mồng 7, Neumann bất thần bị chứng động kinh. Ngày 10 tháng ấy, cơn bệnh thêm nặng. Ngày 13 cùng tháng, cơn bệnh càng trầm trọng thêm. Neumann chỉ còn nằm chờ chết. Đến ngày 15-8-1940, dịp lễ Đức Mẹ lên trời, Neumann mê man tưởng là đến ngày kết liễu cuộc đời. Nhưng chính trong lúc mê man, Neumann được thị kiến nhìn thấy Đức Mẹ. Đến lúc tỉnh lại, thì mọi triệu chứng của bệnh động kinh cũng hoàn toàn biến hết. Neumann trở lại khỏe mạnh, bình thường.
Tuần Thánh năm 1926, trong một buổi cầu nguyện và suy niệm hết sức sốt sắng sự thương khó Chúa, Neumann tan chìm trong Chúa, được in Năm Dấu Thánh Chúa và mang 5 Dấu Thánh này trong mình cho đến hơi thở cuối cùng (1962). Tính ra, có chừng 700 lần, mỗi năm chừng 20 lần, vào các ngày thứ sáu, Neumann sống lại cuộc tử nạn Chúa: trong mình đau đớn cùng cực như hồi Chúa bị đóng đinh, các Dấu Thánh đổ máu đầm đìa. Mỗi khi Neumann sống lại cuộc Tử nạn Chúa như vậy, thì có hàng ngàn người được chứng kiến tận mắt, được phép quan sát, ghi chép những gì xảy ra.
Từ tháng 9 năm 1927 đến tháng 9 năm 1962 - năm Neumann qua đời - 35 năm ròng rã, Neumann không ăn không uống, chỉ sống nhờ rước lễ hằng ngày. Nhiều người nghi ngờ, hỏi chọc Neumann: "lạ lùng thiệt! chị không ăn, không uống, thì chị sống bằng cái gì?"
Neumann đáp lại đơn sơ: "Tôi rước Chúa hằng ngày mà.Tôi ăn Chúa và sống nhờ Chúa. Chính Chúa đã chẳng phán: Mình Ta là của ăn? Nếu Mình Chúa là của nuôi linh hồn, mà Người cũng nuôi cả thân xác nữa, thì Người không làm được sao?"
Ngoài việc rước lễ cách thông thường, Neumann còn được rước lễ cách thần bí, như chính Neumann kể lại năm 1953: nhiều lần, tôi đi nhà thờ kính viếng Thánh-thể, quỳ ở ghế nhà thờ, hết sức khát khao được rước Chúa, thì thấy có Mình Thánh Chúa từ trong Nhà Chầu xuất ra, bay đến tận chỗ tôi quỳ. Tôi mở miệng rước Mình Chúa."
Vì kết hợp thường xuyên, thân mật với Chúa như vậy, Neumann nhiều lần được Chúa cho biết những chuyện kín đáo trong linh hồn kẻ khác. Đặc biệt mỗi khi tới đâu mà có Mình Chúa hay không, Neumann rất nhạy cảm, biết ngay. Xin đan cử vài trường hợp:
1) Cha sở Naber kể: "Khi tôi và Neumann có việc phải tới một vùng xa lạ, mỗi khi đi qua một nhà thờ là Neumann nói ngay cho biết trong đó có Mình Thánh hay không. Tôi và giáo sư Wutz để ý ghi sổ và sau đấy khảo xét lại, thì thấy không bao giờ Neumann nói sai cả;
2) Tiến sĩ Johannes Steiner, tác giả cuốn "Truyện bà Therese Neumann ở Konnersreuth ", ghi lại truyện sau đây:
"Tôi, nhà tôi và Neumann cùng nhau đi viếng nhà thờ rất danh tiếng kính Chúa Ba Ngôi, cũng gọi là thánh đường Kappel, không xa Konnersreuth bao nhiêu. Thánh đường đang lúc trùng tu. Chúng tôi vòng quanh nhà thờ, rồi bước vào. Vào nhà thờ, tôi không thấy đèn chầu (dấu chỉ có Mình Chúa), nên chỉ cúi đầu một chút. Còn Neumann thì bái gối cung kính, sâu thẳm, nói: "Có Mình Chúa". Tôi đáp lại: Neumann à, không có đèn chầu, nên chắc không có Mình Chúa đâu?
Neumann đáp lại: Có mà. Có Mình Chúa đó mà! Vì đã biết nhiều về Neumann, nên tôi xin lỗi Neumann và cung kính, bái gối sâu. Sau một thời gian, tôi gặp cha sở ở Muenchenreuth, tức cũng là cha sở của Kappel, hỏi lại ngài việc Mình Chúa Neumann nói bữa trước, thì được ngài cho hay: Đúng, nhà chầu vừa làm xong. Hôm đó, ngài truyền Mình Chúa và để Mình Chúa, nhưng chưa có đèn chầu. Sau lễ, đang lúc ngài đi lấy dầu đốt đèn, thì là lúc chúng tôi đến viếng nhà thờ."
3) ông Ferdinand - anh ruột Neumann - cũng kể: "Năm 1932, vào ngày Chúa nhật, tôi và chị tôi là Manh đang ngồi trong bếp của cha sở, thì cha sở và Neumann, sau khi đọc kinh chiều ở nhà thờ, trở về, vào bếp. Neumann xem chiều giao động mạnh, nói: "có Mình Chúa ở đây".
Cha sở cười, đáp lại: “Trời ơi, Neumann ơi, làm sao lại có Mình Chúa trong nhà bếp của cha?”
"Thưa cha, có thật". Neumann chỉ đáp lại mấy lời đó. Rồi đi thẳng đến đống thơ để trên bàn. Neumann lục lá thơ thứ 5, có bao màu xanh, chìa cho cha sờ. Cha sở mở ra, thì quả một bánh-trắng-tròn bọc trong miếng giấy trắng. Không có địa chỉ người gởi, cũng không có một chữ nào viết trong đó cả, chỉ có địa chỉ duy nhất người nhận là "Therese Neumann, Konnersreuth", với dấu bưu điện ở Waldsassen.
Sau mấy ngày tìm tòi, người ta đã khám phá ra thủ phạm: một chàng thanh niên ở Waldsassen đã nhìn nhận mình là tác giả lá thư kia và nói:
"Sau khi rước lễ, tôi nghi ngờ, không tin có Chúa thật, nên tôi lấy Mình Chúa ra khỏi miệng, gởi cho bà Neumann, để thử kem bà phản ứng ra sao".
Vì mang 5 Dấu Thánh trong mình, Neumann thấy đau đớn, khó khăn, mỗi khi đi lại hay cất nhắc bất cứ việc gì. Nhưng không phải vì thế mà Neumann lơ là những việc bác ái đầy dẫy, hằng ngày. Trong số các việc này, phải kể:
1) việc trông nom, săn sóc chính nhà thờ Konnersreuth, nơi Neumann sinh trưởng;
2) thăm viếng, chăm sóc các bệnh nhân trong vùng, theo lời bác sĩ Seidl làm việc ở Waldsassen, đã xác nhận và hết lời khen ngợi;
3) tích cực góp phần quan trọng trong việc xây dựng chủng viện ở Fockenfeld, để tiếp nhận các ơn-gọi-muộn Linh mục hoặc Tu dòng;
4) hình-thành Hiệp-hội Chầu-liên-tiếp Mình Chúa tại Konnersreuth, tức là "Hiệp-hội Theresianum" ở nhà dòng Konnersreuth ngày nay.
Ngày 14-9-1962, lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa, Neumann được thị kiến lần chót, thấy Nước Chúa sẽ toàn thắng, vinh quang, rực rỡ đến thế nào. Hôm sau, 15-9 (1962), ngày lễ Bảy Sự Đức Mẹ, Neumann bị chứng đứng tim, cùng với Đức Mẹ thông phần thương khó Chúa.
Sang ngày 18-9-1962, Neumann trút linh hồn.
Theo lời Đức Cố Giám mục Michael Buchberger, Giám Mục Konnersreuth, thì:
1) Ngay hồi Neumann còn sống, nhiều bậc vị vọng đạo đời đã tới lui, thăm viếng Neumann, bàn hỏi nhiều việc quan trọng, nhất là xin Neumann giúp lời cầu nguyện;
2) sau khi Neumann qua đời nhiều người xin ơn đã được như ý. Kẻ khỏi bệnh tật. Người tìm lại được đức tin. Kẻ khác thêm can trường, sức mạnh, chịu đau khổ, thử thách, v.v. Các bảng tạ ơn xếp la hệt ở nhà thờ Konnersreuth và nơi phần mộ Neumann là bằng chứng hùng hồn.
Hiện nay đang có phong trào cổ võ xin Tòa Thánh phong thánh cho Therese Neumann...
Bà Têrêsa Neumann sống nhờ Thánh Thể. Theo khoa học, thì con người chỉ có thể sống nổi 11 ngày, nếu không được ăn uống. Vậy mà bà Têrêsa Neumann đã sống nhiều năm mạnh khỏe, không ăn cũng chẳng uống, ngoại trừ việc rước Mình Thánh Chúa.
Tháng 7 năm 1927, bác sĩ đã cắt cử hai cô y tá canh chừng bà Neumann trong 15 ngày liên tiếp, và họ đã báo cáo rằng: Trong suốt 15 ngày đó bà Neumann chỉ nuốt có 33 gam Bánh Thánh và 45 centimét khối nước (tức là 1/22 lít nước), vì mỗi lần bà rước Lễ, người ta đổ cho bà chút nước để bà dễ nuốt trôi Mình Thánh. Với số lượng bánh và nước này, một người bình thường không thể sống quá 12 ngày, vậy mà bà Neumann đã sống bình thường theo cách đó trong 36 năm dòng dã.
Hơn thế nữa, trong khoảng 36 năm này, bà Neumann đã được in năm dấu thánh, và chịu cực hình trong thân xác như Chúa Giêsu chịu xưa tất cả 750 lần, mỗi lần như thế, máu từ chân tay và ngực bà vọt ra, có lần tới 4 lít. Trước sự kiện này, các khoa học gia sẽ phải giải thích thế nào, nếu họ không nhận rằng đó là phép lạ?
Hết
--