22 Tháng Tư 20245:35 CH(Xem: 46)
Nguồn: Internet Thánh Gioan John Vianney và quyền năng của Áo Đức Bà Mầu Nâu.
22 Tháng Tư 20245:32 CH(Xem: 53)
Năm 2004, tôi đã dịch và viết nhiều sách trong năm này. Một trong những tác phẩm mà tôi đã dịch và sưu tầm có tên là 50 Tuần Cửu Nhật Gõ Cửa Thiên Đàng. Sau đây là bản dịch mà tôi đã cố gắng dịch thuật, bản chính ở phía dưới bằng tiếng Anh là từ Cố LM Don Dolindo Ruotolo. Ngài là một nhà thần bí người Ý. Những lời cầu này là do Chúa Giêsu ban cho Cố LM...
18 Tháng Tư 20249:08 CH(Xem: 70)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Cố LM Don Dolindo có những cảm nghiệm rất hay. Khi còn nhỏ, ngài chịu nhiều sự bách hại và khổ đau. Bằng cách nào mà ngài đã cố gắng ngửng đầu cao lên khỏi bể nước và luôn vui vẻ? Chúa Thánh Thần đã khơi nguồn cảm hứng cho ngài với lời cầu nguyện đơn sơ như sau:
18 Tháng Tư 20248:35 CH(Xem: 59)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Lúc gần đây có nhiều người biết đến hiện tượng: "Padre Pio of Naples", đó là điều mô tả về cố linh mục Don Dolindo Ruotolo. Ngài qua đời vào năm 1970, chỉ hai năm sau khi Padre Pio qua đời vào năm 1968. Ngài đang làm việc một cách hữu hiệu từ Thiên Đàng. Ngài an ủi, dỗ dành, chữa lành cho rất nhiều người khỏi chứng bịnh lo âu,
18 Tháng Tư 20247:58 CH(Xem: 48)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Có một gương sáng lớn nhất, đó là chính Chúa Giêsu. Kẻ dữ độc ác đã đóng đinh Chúa Giêsu, Con Chí Thánh của Chúa Cha ở trên cây thánh giá. Lúc đó, Satan nghĩ rằng hắn đã chiến thắng. Nhưng sự thật thì trái lại. Đó là bởi vì Chúa đã biến đổi sự dữ ấy thành sự thiện.
18 Tháng Tư 20243:58 CH(Xem: 59)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Sr. Emmanuel viết: Có một phụ nữ gõ cửa nhà tôi. Trông cô ấy thật là quá đau khổ, xuống sắc và thiểu não. Đôi mắt, đôi má và cái miệng của cô trông rất là buồn thảm và héo hắt. Cô bắt đầu kể lể về mọi nỗi thống khổ của mình.
17 Tháng Tư 20249:07 CH(Xem: 54)
https://luisapiccarreta.com/other-category/cristina-montella-sister-rita-of-the-holy-spirit-the-little-girl-of-padre-pio/ 1. Thời thơ ấu Nữ tu Cristina Montella được sinh ra tại vùng Cercola (Naples) vào ngày 3/4/1920. Khi cô bé được 2 tuổi, cô đang ở chơi nhà một người cô thì nhìn thấy một bức hình của Thánh Gerard Majella,
17 Tháng Tư 20244:44 CH(Xem: 55)
Đức Mẹ Guadalupe hiện ra ở Tepeyac, Mexico City, nước Mễ Tây Cơ từ ngày 9/12/1531 đến ngày 12/12/1531 và chữa lành rất nhiều người, dù rằng người ta đã chết nhưng vẫn được Mẹ cho sống lại.
17 Tháng Tư 20241:58 CH(Xem: 46)
Tồi vừa được xem một video clip tiếng Anh ngắn. Cậu bé chừng 6 tuổi mơ thấy mình lên Thiên Đàng. Sáng hôm sau, cậu kể câu chyện mẹ mình: -Mẹ ơi, con gặp một người chị của con ở Thiên Đàng. -Ủa, con chỉ có một người chị ở đây thôi mà.
13 Tháng Tư 20249:23 CH(Xem: 70)
Cảm nghiệm của một thanh niên làm nghề taxi: Con gặp khó khăn trong việc làm nên con quyết định làm nghề tài xế taxi.

TRUYỆN NGẮN: Bước Không Qua Số Phận (7-8)

11 Tháng Năm 201811:24 SA(Xem: 758)
caydodongtien-tịTRUYỆN NGẮN: Bước Không Qua Số Phận (7-8)
Chương 7

Hồi đó, cuối năm 1976, Nhân vội vã trở về Đà Nẵng để trốn lệnh truy nã. Chuyến đi kéo dài hơn tuần lễ. Đón xe dọc đường từng chặng, có khi đi bộ suốt buổi. Suốt đoạn đường cũng chẳng có chuyện gì. Nhưng hôm từ Bình Định về Quảng Ngãi, sau một bữa nhậu say quắc cần câu với cánh tài xế, sang hôm sau khi tỉnh rượu, Nhân thấy mình nằm ở vệ đường ở Mộ Đức, tiền bạc trong túi bị tước hết. Hai tên tài xế cho Nhân đi nhờ biến đâu mất. Cũng may, Nhân đã chia nhỏ bó tiền, để mỗi nơi một chút, nhờ vậy, cũng còn chút tiền dấu trong đôi giày, dù không nhiều lắm. Đến Đà Nẵng nửa đêm, căn nhà cũ của gia đình nay đã biến thành cơ quan của chính quyền mới. Lang thang suốt đêm, thấy mình như kẻ xa lạ ở một thành phố khác. Lân la quán cà phê gần ngôi nhà cũ từ tờ mờ sớm, Nhân biết được gia đình mình đang ở trong một con kiệt nhỏ cuối đường Hoàng Diệu, gần đường rầy xe lửa. Ngôi nhà ngày xưa đã bị trưng dụng từ khi cách mạng về, ba Nhân nhờ ngày trước có tham gia kháng chiến chống Pháp, trước 75 cũng có thành tích nuôi dấu cán bộ gì đó, nên không bị đi học tập cải tạo, nhưng không được sử dụng.

Nhân vừa bước vào ngõ, ba Nhân đã nhận ra ngay. Ông cuống quit ôm lấy Nhân, miệng cứ lập lại mãi một câu hỏi: “Về lúc nào? Sao lại về? Về lúc nào? Hành lí đâu?” Nhân cũng ôm lấy cha, nước mắt giàn giụa:
-Ba ngồi xuống đây nghe con nói, ba ngồi xuống đi.

Nhân quì dưới đất, lạy mấy lạy, cứ lập đi lập lại:
-Ba ơi, con bất hiếu không làm được ước nguyện của ba rồi.

Ông Đốc ngồi sững sờ, mang máng hiểu đã có một tai họa tày trời. Niềm tin của ông, lẽ sống của ông. Sao lại thế này? Nhân vừa khóc, vừa lạy, vừa kể hết mọi chuyện. Lâu lâu lại nấc lên, nước mắt đầy mặt. Ông Đốc có cảm giác như ngàn lưỡi dao đâm vô ngực, xoáy mạnh. Tai lùng bùng, trái tim như đang có bàn tay ai bóp nghẹt. Đầu óc choáng váng, trái đất như sụp dưới chân ông, ông thấy khó thở, trước mặt chỉ là một khoảng tối vô tận. Nhân kể lể không biết bao lâu, không thấy ông Đốc động tĩnh gì. Nhân ngước lên, nắm lấy tay cha. Anh hoảng hốt như điện giật, tay ông Kim lạnh ngắt như nước đá, cứng đờ. Nhân hốt hoảng ngồi lên, nhìn thấy khuôn mặt trắng bệt, hai mắt mở trừng trừng của ba mình, anh hét lên:
-Ba ơi, con giết ba rồi, ba ơi!!!

Ông Đốc đã tắt thở từ lúc nào, mặt đanh lại, hai mắt vẫn mở, hai hàm răng nghiến chặt, giận dữ.

Đám ma diễn ra lạnh lẽo, chỉ còn hai anh em: Nhân và cô em gái. Cô em kế Nhân bị bệnh thần kinh không biết lang thang ở đâu mà bị cưỡng hiếp có bầu, rồi băng huyết lúc sinh, chết hồi đầu năm. Đứa em bị bệnh down thì mất tích trong những ngày chộn rộn cuối tháng ba năm bảy lăm. Thằng em trai kế Nhân nghe nói đi bộ đội đóng ở Tây Ninh, nhưng chẳng có địa chỉ liên lạc. Hôm đưa đám trời lại mưa suốt buổi, hai anh em mặc áo xô, chống gậy trông thảm thiết giữa đồng trống. Nhân không khóc, nhưng hai mắt đỏ ngầu.

Đám tang xong xuôi, Nhân đi tìm Dạ Lan. Gia đình Dạ Lan cũng lâm vào bi kịch. Hôm Dạ Lan về Huế thăm bà ngoại, gia đình ông Bửu Hân tổ chức vượt biên. Hai vợ chồng và cậu con trai bị bão tố dìm xác xuống đáy biển, chuyến đi đó chỉ có mấy người được tàu lớn cứu thoát, tạm ngụ ở Hồng Kông. Nhà bị tịch thu vì tội phản quốc. Dạ Lan xin được ở lại trong căn phòng nhỏ dành cho người giúp việc ở góc sân cùng với cây đàn piano. Không biết vì lí do nào, những người phụ trách cũng chấp nhận.

Nhân nhiều lần tìm đến chỗ ở của Dạ Lan, nhưng nàng không tiếp, cứ trốn tránh mãi. Sau cùng, hai người gặp mặt nhau, Dạ Lan cho biết nàng đang mang thai, nhưng không cho biết cha đứa bé là ai. Sững sờ. Nhưng Nhân chấp nhận tất cả, chỉ mong ước được sống cùng nhau. Nhân cũng không tìm hiểu ai là cha đứa bé…Sau này, Nhân mới biết rằng cái bào thai là kết quả của cuộc trao đổi để nàng được ở lại căn phòng nhỏ đó cùng với cây đàn. Và hai người đồng ý chung sống, không lễ cưới, không hôn thú, trong căn phòng chật hẹp dưới gốc cây ngọc lan, kết cục một cuộc tình như thế cũng là một đoạn kết đẹp vì lúc bấy giờ là thời kỳ loạn lạc, nhiều bất trắc.

Nhưng cuộc sống không phải chỉ có tình yêu là đủ. Nhân không tìm đâu được việc làm, vì cũng chẳng có giấy tờ chứng minh năng lực, lí lịch lại mù mờ mà cũng vì thời bấy giờ phải có mối quan hệ nhất định nào đó mới có thể kiếm được việc. Loay hoay mãi với cơm áo, cuộc sống gia đình bắt đầu thiếu vắng tiếng cười. Lương cô giáo của Dạ Lan với tiêu chuẩn mười ba kí gạo bây giờ phải chia ra cho hai người, những bữa cơm toàn độn sắn khoai với bo bo, canh rau và cá. hẩm Mùa đông năm đó, Dạ Lan bị tai nạn xe cộ lúc đi dạy học về, chiếc xe đạp cong niềng, gãy phuộc. Dạ Lan chỉ bị trầy sướt nhưng lại bị hư thai, máu nhuộm đỏ phần dưới cơ thể. Không biết kiếm đâu ra tiền, Nhân đành bán chiếc piano lấy chỉ vàng lo thuốc men cho vợ. Ở bệnh viện về, biết chiếc đàn đã bị bán, Dạ Lan im lặng suốt cả tháng, chẳng hé một câu nào. Nhân thấy mình có lỗi, và Nhân nhớ dự định của mình khi bước đầu du học, sẽ mua cho Dạ Lan chiếc đàn piano tốt nhất lúc tốt nghiệp trở về. Dự định không thực hiện được lại đem bán chiếc đàn kỉ niệm của Dạ Lan. Nhân cảm thấy mình hèn hạ và bất lực. Thời kì này, người ta rủ nhau đi săn trầm, kiếm được rất khá. Trước bức bách của đời sống và nỗi buồn khó nguôi của Dạ Lan, Nhân quyết định vào núi tìm trầm, mong đổi đời, hi vọng sẽ mua lại đền cho vợ chiếc đàn khác.

Rừng rú bao la, ngậm ngãi tìm trầm, những chuyến đi nhiều khi kéo dài cả mấy tuần. Cả bọn sống như dân du mục, đến đâu dựng lều trại ở đó. Tìm trầm là công việc chẳng dễ dàng gì, mưa gió, rắn rít, thú dữ...tất cả đều đáng sợ, có thể chấm dứt đời người bất cứ lúc nào. Nhưng đáng sợ hơn cả là con người. Lo nhất là lúc ăn được trầm, đó là thời gian sinh tử, phải rời rừng ngay bất cứ giá nào, nếu muốn còn sống để trở về. Chỉ cần một phát đạn, hay chỉ là một nhát dao, một cú đâm từ sau lưng, số trầm vừa kiếm được sẽ không còn và tính mạng sẽ bị định đoạt. Sống như kẻ du mục và cư xử như những kẻ du thủ. Nhân hòa mình vào thế giới đó, và trở thành thủ lãnh một nhóm ba người. Suốt mấy tháng gần như kiệt sức và cũng chẳng còn bao nhiêu vốn liếng, trầm vẫn là những giấc mơ. Cả bọn quyết định đi sâu vào rừng nguyên sinh, giáp ranh với vùng Tây nguyên. Trúng đậm. Có cả kỳ nam. Chuyến này sẽ đổi đời. Ba người run rẩy gói ghém, rời rừng. Mưa như trút. Mỗi người một ba lô đầy căng trầm và kỳ nam. Trời nhá nhem, sấm sét xé trời, đi ngang qua một đường mòn, dưới là vực sâu thăm thẳm. Một nhóm cướp xuất hiện như từ dưới đất mọc lên. Tiếng nổ đầu tiên hạ gục ngay người đi đầu, xác rơi xuống vực cùng chiếc ba lô. Nhân hét như sấm, băng lên, nhắm vào thằng đầu đàn đang cầm súng, một cú song phi, tên cướp ngã ngửa, súng văng ra. Nhân nhanh chân đạp ngay báng súng, bật lên, cây súng nằm trong tay như một ánh chớp. Anh lên đạn, bắn chỉ thiên nguyên một tràng. Bọn cướp lóp ngóp bỏ chạy.

Hai người chạy dưới mưa, băng qua con suối tràn nước. Hình như lũ về. Những thác nước trắng xóa ào ạt. Nhân và người đồng hành lóp ngóp bơi qua con suối. Nước dữ dội, cuốn phăng phăng. Cả hai mệt lử. Ranh giới sống chết. Đang cố chống trả dòng nước cuồn cuộn, Nhân nghe tiếng kêu thảm thiết của người bạn. Anh quay lại, nước đang kéo người bạn xa dần. Nhân cố bương tới, nắm được tay trơn tuột. Anh bạn sợ hãi, run rẫy, lắp bắp: “Cứu tôi..Cứu tôi”. Lại tuột tay, Nhân cố bơi tới, anh bạn buông mình xuôi dòng nước, chiếc ba lô của anh ta rời khỏi người trôi băng băng. Anh ta cố với theo nhưng không kịp. Nhân cố vượt lên, nắm được tay bạn, ghì hết sức kéo lại. Lại một đợt nước ào ạt, chiếc ba lô của Nhân tuột khỏi vai, trôi theo dòng nước dữ. Không tiếc, phải sống đã. Cố lên, gắng lên. Nước lũ đang về, những tiếng ầm ầm như sấm động. Nhân ôm bạn, cố vươn lên. Đến bờ, lại tuôn chạy trốn lũ. Người bạn như cái xác không hồn, líu díu chạy theo Nhân. Mưa rát mặt. Những cành cây quất vào thân thể. Cứ bương tới. Bương tới. Để sống. Cả hai chạy ra tới bìa rừng, bên kia là quốc lộ. Sống rồi. Hai người ôm lấy nhau, nước mắt hòa nước mưa. Lại trắng tay. Đón được một chiếc xe của bộ đội sau khi ăn hai tô phở lớn ngút khói ở quán phở bên đường. Nhân thấy khỏe hơn và lúc đó anh mới thấy tiếc cái ba lô kỳ nam vừa mất. Một gia tài đã tuột khỏi tay. Ngồi trên xe dưới cơn mưa tầm tã, Nhân nhớ Dạ Lan đến cồn cào. Anh hình dung thân thể trắng ngà, thơm tho của vợ. Anh nhớ tiếng rên như mèo kêu của nàng khi cả hai lên đến đỉnh của yêu đương. Mái tóc dài xõa trên nền drap trắng. Nỗi nhớ xôn xao trong dạ, anh mong về mau để được ôm nàng trong vòng tay với những lời yêu thương.

Nửa đêm Nhân mới về đến căn nhà nhỏ dưới cây ngọc lan. Phố vắng tanh. Mưa vẫn ào ạt. Anh đội mưa đi về, định tạo một sự ngạc nhiên cho Dạ Lan. Căn phòng đèn mờ sáng. Cửa chỉ khép hờ. Anh nhẹ nhàng đẩy cửa. Anh sững người. Dưới ánh đèn mờ ảo, trên giường, những khoảng trắng da thịt loang loáng theo nhịp. Tiếng thở của người đàn ông, tiếng rên như mèo kêu của người đàn bà. Khốn nạn. Máu Nhân như đông cứng lại. Tim

muốn vỡ ra. Hai bàn tay bỗng nắm chặt, gồng lên chuẩn bị một cú đấm. Đôi chân muốn vọng động. Chỉ một cú tấn công, sẽ có người chết. Bỗng Nhân run rẩy như người mắc kinh phong, cả thân người giật không kiểm soát được. Những giọt nước mưa từ người anh đọng vũng trên sàn nhà. Đầu anh bỗng nhức như muốn vỡ ra. Tim loạn nhịp. Anh lặng lẽ đi ra, ngồi dưới gốc ngọc lan, mưa vẫn xối trên người anh. Nhân thấy mình bất

lực, tự khinh mình. Anh chẳng trách ai cả. Chẳng qua cũng bởi tại anh, vì anh chẳng làm tròn trách nhiệm của một người chồng. Anh chỉ mang lại những nỗi đau. Nhân ngồi như bức tượng suốt đêm. Trời gần sáng, chân trời sáng lên một vệt mờ. Có tiếng kẹt cửa, người đàn ông len lén đi ra, lặng lẽ đi về cuối phố. Nhân chẳng cần biết đó là ai. Chỉ biết đó là người đàn ông đã ngủ với vợ mình suốt đêm qua. Từng đó cũng đã đủ.

Trời sáng hẳn. Dạ Lan mở cửa, dắt xe ra. Nàng quay lại khóa cửa thì nhìn thấy Nhân. Thoáng một chút hoảng hốt. Nàng cất tiếng:
-Anh về hồi nào mà không vào nhà? Sao lại ngồi dầm mưa thế này?
-Về hồi hôm. Không vào vì căn nhà này không còn chỗ cho tôi nữa rồi.

Dạ Lan tái mặt, người như muốn ngã, nàng níu cánh cửa, hoảng hốt, lắp bắp. Chiếc xe ngã chổng chơ bên thềm. Không chờ câu nói tiếp của Dạ Lan, Nhân lẳng lặng đi nhanh ra đường. Phố bắt đầu một ngày mới. Anh bước mà chẳng biết đi đâu. Cả ngày hôm đó, Nhân say khướt. Mấy hôm sau anh rời thành phố, lại đi vào núi. Gần nửa năm sau, Nhân mới lại về. Lần này trở về, Nhân định sẽ quên hết, sẽ sống lại với Dạ Lan, làm lại một chương mới. Quên tất cả. Nhưng, Dạ Lan đã không còn nữa. Một tuần lễ sau khi Nhân bỏ đi, không thấy Dạ Lan đến lớp, nhà trường đến tìm nàng thì phát hiện Dạ Lan đã treo cổ tự sát. Nàng mặc chiếc áo màu tím than, cổ quấn chiếc khăn quàng màu tím nhạt, di đôi guốc cao cũng màu tím. Dây treo cổ siết làm cho lưỡi nàng thè ra, khuôn mặt cũng tím rịm.

Từ hôm đó, thành phố thêm một người điên. Nhân lang thang bờ bụi, lúc nào cũng say khướt, Áo quần càng ngày càng rách bươm, hôi hám, tóc tai bù xù, dơ bẩn. Ban ngày Nhân thường đi dọc biển, lượm những cành cây khô, bẻ nhỏ mang đến tiệm bán trầm hương, đòi bán với giá cao, khi người ta bảo không mua, đuổi đi, Nhân chưởi một tràng tiếng Pháp và bắt đầu xổ tiếng Tây giờ này qua giờ nọ, không ai hiểu. Đêm đến, anh múa võ trên hè phố, miệng lẩm bẩm tên Dạ Lan. Anh khóc cười vô chừng như mưa nắng. Anh sống trong một thế giới khác. Những người trước đây biết tài năng của Nhân, chỉ biết chép miệng lắc đầu, thương cho một số phận. Lúc đầu, bên công an nghi Nhân giả điên với mục đích mờ ám chính trị nào đó, nhưng rồi sau một thời gian thẩm vấn và theo dõi, chẳng thu thập được gì. Nhân sống như vậy gần hai năm dài, rồi bỗng dưng thành phố vắng bóng người thanh niên điên loạn nói toàn tiếng Pháp.

Nhân lại đi vào núi, đến Bồng Miêu rồi qua Phước Sơn đào vàng. Ở đâu anh cũng trở thành đại ca vì thế giới của những kẻ săn vàng là thế giới của bạo lực, giết nhau như cơm bữa, mà Nhân thì võ nghệ cao cường, nên đắc dụng trong cái thế giới máu và vàng đó. Hơn nữa, sau những biến cố của cuộc đời, Nhân bất cần thân thể, liều lĩnh và tàn nhẫn. Những đặc tính đó ở chốn giang hồ không xanh cỏ sớm thì chỉ là lãnh chúa. Nhân bắt đầu giàu có, những miếng vàng đào được biến Nhân thành một đại gia, tiêu tiền như rác. Anh về phố, mua một chiếc đàn piano mới cứng, thuê xe chở đến mộ Dạ Lan, ngồi suốt ngày độc thoại với cỏ cây, giun dế. Khi hoàng hôn xuống, anh đốt chiếc đàn. Lửa cháy rừng rực sáng một góc nghĩa trang.

Trong một lần nhậu ở quán bên biển Mỹ Khê, sau khi đã chếnh choáng thì anh nghe ở bàn bên đang nói về anh. Một tay anh chị chắc cũng đã xỉn, nói với mọi người:
-Tưởng đi Tây đi Mỹ về làm ông này bà nọ, cuối cùng cũng chỉ là một thằng đi mót vàng. Lại thêm giết cha, giết vợ.

Nhân loạng quạng bước qua, chỉ vào mặt tên đó và bảo:
- Mày là thằng nào mà dám trêu ông, mày vừa bảo gì, nhắc lại xem nào.

Thằng kia cũng chẳng phải tay vừa. đứng lên hùng hổ, nói chưa hết câu đã ngã vật ra giẫy đành đạch. Nhân vung tay một cú atémi chặt vào gáy của địch thủ. Hắn chết ngay sau mấy cái giẫy. Cả quán xôn xao, đứng cả lên. Nhân lừng khừng bước ra quán, xiêu vẹo trên đường. Tay chủ quán bắt vào mạch của nạn nhân, hét lớn:
-Nó chết rồi, bắt cái thằng giết người lại.

Ai cũng la hét nhưng chẳng ai có một hành động cụ thể nào. Nhân bước ra ngõ, đi đến đồn công an bên kia đường, tự thú. Án giết người, tòa xử 15 năm.

Ở tù trên rừng, lao động đúng 9 năm thì Nhân được đặc xá. Tiều tụy trở về thành phố, Nhân chưa biết mình sẽ sống như thế nào thì cơn sốt rét ác tính quật ngã anh. Anh bất tỉnh bên vệ đường. Người đi đường mang anh vào nhà thương, anh mê man suốt mấy ngày, thân thể như cái xác ve, không một người thân chăm sóc. Số mệnh đẩy đưa, hôm đó chị Đầm vào bệnh viện thăm người quen. Đi tìm phòng, trời xui đất khiến thế nào mà chị nhìn ra Nhân đang thoi thóp trên giường bệnh. Chị ở lại chăm sóc cho Nhân mấy tháng ròng, lúc xuất viện chị đưa Nhân về nhà mình, tiếp tục lo miếng ăn, giấc ngủ cho Nhân. Và rồi họ sống như vợ chồng. Lúc trước chị Đầm ở bàu Thạc Gián, bán rau ở chợ Cồn, sau đó khu bàu bị quy hoạch, được đền bù được ít tiền thì chị gặp Nhân, lo thuốc thang cho Nhân, còn lại một ít, hai vợ chồng mua khoảnh đất ở Thanh Khê. Vợ bán rau còn chồng chạy xe ba gác, sống tạm cho xong một đời gần mười mấy năm nay, loay hoay mãi mà không đủ đút lỗ miệng.

Tôi, Nhân và thầy Thanh ngồi uống cà phê ở Bạch Đằng. Điện thoại của thầy Thanh reo, thầy bảo đến đi, đến đi, có Ngọc ngồi với Nhân, đến cho vui nhé. Tôi hỏi ai vậy, thầy bảo:
-Hồ Lê, Hồ Lê bữa trước gặp tôi có nói là khi nào ngồi với mấy anh thì bảo Lê ra cho vui.

Hồ Lê đến, vẫn to cao lừng lững, trông còn khỏe hơn xưa. Hắn mang vợt tennis, giày Adidas, áo thun cá sấu trắng kẻ sọc, nhìn như tài tử. Sau lưng hắn có hai thanh niên trẻ, đi kè kè, chắc là bảo vệ. Vừa bắt tay tôi hắn đã hất hàm: Chào. Lúc này mày còn sợ tao không. Tôi buột miệng:
- Sợ gấp đôi ngày xưa.

Hắn cười cười:
-Sao vậy?

Tôi tiếp liền, sợ sẽ không dám nói nếu ngần ngừ:
- Ngày xưa tao sợ mày vì mày có sức mạnh, bây giờ mày vừa vẫn có sức mạnh lại thêm quyền lực, sợ gấp đôi là phải rồi.

Thầy Thanh giảng hòa:
-Anh em bạn cũ gặp nhau, mừng vui đi, hằm hè nhau làm gì hè.

Tôi chợt nhớ ngày xưa tôi hay chưởi thầm nó và tự bảo anh hùng mười năm trả thù chưa muộn. Bây giờ đã bốn mươi năm trôi qua, tôi vẫn là thằng dưới cơ.

Nhân bỗng lên tiếng:
-Mày biết ngày xưa tại sao thằng Hồ Lê ghét tụi mình không?

Tôi chưa kịp trả lời thì hắn nói luôn:
-Ngày trước hắn thèm cuộc sống của chúng ta mà không có được nên ganh tỵ. Bây giờ hắn có điều kiện, mày thấy không, hắn đang tập tành sống như ngày xưa cha ông chúng ta đã sống, ăn chơi, nhậu nhẹt, đánh gôn, chơi tennis, thế thôi.

Thầy Thanh xua tay:
-Thôi mà, cay cú nhau làm chi, vui với nhau đi.

Hồ Lê im lặng, chẳng trả lời. Hắn đang nghĩ gì nhỉ? Bữa cuối ở Đà Nẵng, tôi đi mua cho Nhân đôi săng đan, hắn bảo mua dép nhựa dễ đi hơn, nhưng tôi nói thay đổi tư duy cho đời khá hơn đi, mang dép da vẫn tốt hơn chứ. Hắn cười: “Đụ mẹ, đương nhiên da phải hơn nhựa rồi”.Tôi rút hết tiền tiết kiệm được 37 triệu, tôi đưa hết cho vợ chồng Nhân. Chị Đầm cầm tiền cứ khóc mãi, cám ơn tôi hoài. Tôi bảo với chị:
-Đây là tiền của Nhân, tôi gởi lại cho Nhân chứ không có ơn huệ gì trong sự việc này, chị đừng bận tâm. Sau này, cần gì cứ bảo tôi, tuy cũng chẳng giàu có gì nhưng tôi với Nhân là hai anh em, phải biết giúp nhau chứ.

Hôm tiễn tôi ra phi trường, chị Đầm khóc và Nhân cũng rơm rớm nước mắt khi ôm tôi.

Chương 8

Tôi về Sài Gòn được nửa tháng thì chị Đầm điện thoại cho tôi. Bữa đó trời mưa, nghe tiếng được tiếng mất vì chị khóc nhiều hơn nói. Đại khái là Nhân đã bị tai nạn, xe lửa cán nát đôi chân của Nhân, không biết có qua nổi không?

Gần Tết Nguyên Đán, mua vé quá khó khăn, tôi phải chầu chực hai hôm ở phi trường mới kiếm được cái vé bay ra. Nhân nằm đó, hai chân đã cưa đến bẹn, băng trắng cả phần dưới. Người hắn teo tóp, xanh mướt. Hắn cầm tay tôi, rưng rưng. Đôi săng đan mới mua để trên đầu giường. Nhân bảo:
-Mình để nó ở đây để nhớ đến cậu, cậu bảo mình trong năm tháng còn lại gắng bước qua số phận, mình cũng muốn bước qua, nhưng giờ còn chân đâu nữa mà bước, hở Ngọc. C’est bien!

Tôi khóc và ngạc nhiên vì thấy Nhân đã xưng hô như xưa, như cái thuở chúng tôi là những thanh niên với tương lai rộng mở. Và kiểu nói “C’est bien” làm tôi nhớ đến Andre Gide, năm 1951 lúc sắp từ trần, cũng bảo “C’est bien”, và nhà triết học Kant cũng thế, lúc sắp lìa đời cũng buột miệng: “Es ist gut”. Có phải là điềm gở chăng. Hay là suy nghĩ của các thiên tài đối với cuộc đời điên dại này. Với tôi, Nhân cũng là một thiên tài, nhưng là thiên tài mắc đọa.

Chị Đầm kể hôm trước đi chở rau ở chợ về, ngang qua đường rầy xe lửa. Có hai mẹ con đang băng qua đường rầy khi xe lửa đang ầm ầm chạy tới. Mọi người la oai oái, không biết phải làm gì. Nhân bay từ chiếc xe ba gác, đẩy hai mẹ con ngã sấp phía bên kia, và Nhân kẹt đôi chân trên đường rầy, những bánh xe lửa nghiến qua, nát bét. Chị lại khóc và lo lắng. Tôi biết chị thương Nhân lắm. Thương từ khi Nhân ở đỉnh cao cũng như lúc Nhân ở vực sâu.

Có hai cô nhà báo và anh chàng quay phim của Đài Truyền hình vào phỏng vấn Nhân. Nhân được trở thành gương người tốt việc tốt. Nhân cầm bằng khen và bao thư, cô nhà báo giương máy ảnh cứ hét lên: “Cười đi, cười đi..1..2..3… chụp nè”. Máy quay phim chạy sè sè. Mặt Nhân nhăn nhúm vì đau đớn. Chị Đầm thảng thốt lo âu. Hôm ngồi trên máy bay về lại Sài Gòn, đọc trên báo thấy hình của Nhân, nụ cười như đang khóc.

Sài gòn, tháng 3.2011
ĐỖ DUY NGỌC