TERESA BỆNH NẶNG VÀ TỪ TRẦN
Đời sống tu của Teresa tràn đầy đau khổ. Những đau khổ thế trần giúp Teresa lúc nào cũng khát vọng về trời, nhưng chị Thánh cũng cho biết chị muốn về trời, chị ước ao được gần Chúa chứ không phải để trốn đau khổ, trái lại, chị luôn ước ao được chịu đau khổ mãi mãi.
Từ ngày vào dòng, Teresa mắc bệnh lao, nhưng chị vẫn giấu kín, không nói cho ai biết. Về mùa đông, Teresa thường thức suốt đêm vì căn phòng trống trải đó không thể giữ đủ hơi ấm để có thể ngủ. Chân tay Teresa tê cóng và đau nhức như kim châm. Những đau đớn thể xác đó làm cho Teresa yếu lại càng yếu hơn. Mùa chay năm 1896, Teresa thấy có triệu chứng thổ huyết. Chị rất mừng vì cho đó như một dấu hiệu của cái chết, một lời gọi của Chúa Giêsu xa xăm nhưng vô cùng êm dịu. Chị trình cho bề trên biết và cũng tiếp tục dự các nghi lễ mùa chay. Chị còn được bề trên cử coi nhà tập nữa, chị vui vẻ nhận lời dù đã thấy mệt lắm.
Cũng trong thời kỳ này, tâm hồn Teresa bị Chúa thử thách thăng nhặt. Chị thấy mình ở trong bầu trời tối tăm không trăng sao. Teresa không còn tìm được một an ủi nào nữa. Chị thú nhận rằng nhiều khi chị như mất đức tin, chị nói “khi nói về hạnh phúc Thiên đàng, tôi không thấy vui tí nào, tôi chỉ nói theo lý trí thôi”. Nỗi khổ tâm vì nghĩ rằng bị Chúa bỏ rơi không làm cho Teresa chán nản, trái lại chị càng cố gắng nhiều hơn và bao giờ cũng chu toàn phận sự vì lòng mến Chúa. Cơn thử thách đó kéo dài cho tới khi Teresa tắt thở. Trong thời gian đau khổ ấy, chỉ có một lần chị được an ủi đôi chút.
Đó là một giấc mơ đến với Teresa vào một đêm tháng năm, Terêsa kể lại “tôi thấy mẹ Anna, đấng lập dòng kín của Pháp cùng hai nữ tu khác hiện đến. Tôi hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, xin cho con biết Chúa còn để con ở dưới thế lâu nữa không. Ngài sắp tới tìm con chưa?.
Mẹ mỉm cười hiền hậu:
- Ồ, sắp tới rồi, sắp rồi.... Mẹ hứa với con điều đó.
- Mẹ ơi! Thiên Chúa nhân từ có đòi con điều gì khác ngoài công việc và ước vọng bé nhỏ của con không?
Nghe tôi hỏi thế, nét mặt người sáng lên lạ thường, người nhìn tôi cách âu yếm
- Chúa nhân từ không đòi gì con nữa đâu. Ngài bằng lòng rồi, rất bằng lòng
Rồi mẹ Thánh ôm tôi trong tay làm cho tôi sung sướng vô cùng.”
Nhưng niềm hạnh phúc đó qua đi rất nhanh và tâm hồn Teresa lại chìm đắm trong tối tăm. Vào tháng một, nhà dòng tổ chức tuần chín ngày kính Thánh tử đạo, Vena. Teresa xin Thánh nhân chữa bệnh mình vì chị ao ước được sang kín Hà Nội lúc đó đang cần người. Trong những ngày cầu nguyện, Teresa hiểu rằng Chúa không muốn thế, và chị cứ vui lòng chịu đau khổ là hơn.
Bệnh lao trở thành trầm trọng và hành hạ Teresa ngày đêm, nhưng chị vẫn không muốn bỏ các công việc hằng ngày. Chị phải cố gắng hết sức trong mọi việc. Mỗi chiều, lúc về phòng riêng, Teresa mất hết nửa giờ mới leo hết cầu thang. Cứ lúc lại ngồi lấy hơi. Cởi áo đi ngủ thật là một hành khổ nặng nề cho Teresa và rồi Teresa nằm run, rồi suốt đêm trên chiếc giường nhỏ đợi sáng để lại tiếp tục công việc.
Teresa rất khổ tâm vì thấy mình không làm hết được mọi công việc như chị em và chị chỉ biết dâng cả ước vọng của mình cho Chúa. Chị luôn tỏ ra vui tươi, trầm tĩnh, giấu kín bệnh nặng của mình. Nhưng một hôm, Teresa giúp bàn trong bữa ăn, quá run rẫy nên xô cái mâm vào cửa làm vỡ kính. Hôm đó, Teresa khóc nghẹn ngào.
Từ tháng tư năm 1897, Teresa không dậy được nữa, chị em đặt Teresa trong chiếc xe ba bánh và đẩy đi trên những con đường nhỏ trong vườn. Teresa nghĩ đến người cha quá cố mấy năm trước cũng đã ngồi liệt như mình. Teresa thường ví mình như một cái thư, thân xác là phong bì còn tâm hồn là chữ. Và thời kỳ này chính là lúc Chúa Giesu “xé bao thư để đọc”. Như thế thì đáng vui lắm chứ, chứ sao lại buồn.
Trong 18 tháng trời nằm bệnh, Teresa luôn nhắc tới Thiên Đàng. Chị viết cho một chị nhà tập “chị hỏi em có muốn về Thiên Đàng không ư? Ồ, em rất muốn, nhưng cứ đợi bệnh nặng thì còn lâu lắm, em chỉ tin tưởng vào tình yêu thôi...”. Một hôm, bàn về những chuyện sẽ làm trên Thiên Đàng, Teresa đã dám quả quyết “chắc lúc đó, em muốn gì Chúa cũng làm vì khi em còn sống, Chúa muốn gì em cũng làm”.
Teresa thường nói “tôi muốn lên trời để làm ơn cho trần thế”. Một lần, Celine đọc cho Teresa nghe một đoạn sách nói về hạnh phúc Thiên Đàng. Teresa bảo “em không muốn hưởng hạnh phúc, em chỉ thích tình yêu thôi. Yêu mến, và được yêu trở lại thế gian này để làm cho mọi người yêu mến Chúa. Tình yêu đó là nguyện vọng của em”.
Vào cuối hè, căn bệnh của Teresa trở nên nguy kịch. Chị phải xuống nằm ở phòng bệnh. Ở đây, chị trải qua một cơn hấp hối lâu ghê gớm. Sức mạnh hỏa ngục vây hãm Teresa và làm chị phải chiến đấu luôn ngày đêm. Một đêm, Teresa xin chị khấn hộ, vẩy nước Thánh trên giường “ác quỉ vây quanh em, em không xem rõ, nhưng em cảm thấy rõ ràng. Nó nắm giữ em bằng một bàn tay sắt, và luôn cố gắng làm em thất vọng... Em không thể cầu nguyện được nữa, chỉ biết nhìn lên Đức Mẹ mà kêu lên Giêsu thôi”.
Tượng Đức Mẹ này là tượng đã chữa bệnh Teresa hồi chị 10 tuổi. Trong thời gian đó, Pauline và Marie luôn có mặt bên giường. Các chị thấy lòng tan nát khi phải nhìn em quằn quại trong bệnh hoạn và trong cơn chiến đấu nội tâm. Tuy nhiên, Teresa vẫn tỉnh táo và cầu nguyện. Chị còn thân mật pha trò với các nữ tu tới thăm. Chị an ủi các chị và nhắc nhở nhiều chuyện đầy kỉ niệm.
Chín giờ tối ngày 29 tháng 9, chỉ có mình Teresa bên giường. Bỗng cả hai nghe thấy tiếng vỗ cánh, rồi một con chim gáy tới đậu ở cửa sổ, se sẽ gáy lên giọng gù gù âu yếm. Hai chị em nhìn nhau và cùng nhớ lời Nhã Ca “chim gáy đã cất giọng, hỡi bồ câu của ta, hỡi em yêu dấu, hãy dậy và lại đây, vì mùa đông đã qua rồi”. Ngày hôm sau là ngày cuối cùng trong đời của Teresa.
Chiều hôm đó, Teresa nói với mẹ Bề trên “mẹ ơi, chén đắng đã đầy đến miệng... không bao giờ con dám nghĩ mình chịu đau khổ đến thế. Con chỉ cắt nghĩa nổi nhờ nguyện vọng tha thiết của con muốn cứu các linh hồn”. Rồi chị quả quyết “không bao giờ con ân hận vì đã tận hiến cho Chúa tình ái”.
Sau đó, Teresa trải qua hai giờ hấp hối và hồi 7 giờ chiều, chị tắt thở. Tay vẫn nắm chặt tượng Chịu nạn và miệng còn đang nói “Ôi lạy Chúa, con yêu Chúa, con yêu ..... Chúa”. Các nữ tu đứng chung quanh nghẹo đầu về một bên. Bỗng nhiên, chị mở choàng mắt ra, nét mặt tươi tỉnh ngây ngất vừa nhìn thấy một cảnh gì lạ lùng lắm rồi nhắm mắt lại.
Đời sống tu của Teresa tràn đầy đau khổ. Những đau khổ thế trần giúp Teresa lúc nào cũng khát vọng về trời, nhưng chị Thánh cũng cho biết chị muốn về trời, chị ước ao được gần Chúa chứ không phải để trốn đau khổ, trái lại, chị luôn ước ao được chịu đau khổ mãi mãi.
Từ ngày vào dòng, Teresa mắc bệnh lao, nhưng chị vẫn giấu kín, không nói cho ai biết. Về mùa đông, Teresa thường thức suốt đêm vì căn phòng trống trải đó không thể giữ đủ hơi ấm để có thể ngủ. Chân tay Teresa tê cóng và đau nhức như kim châm. Những đau đớn thể xác đó làm cho Teresa yếu lại càng yếu hơn. Mùa chay năm 1896, Teresa thấy có triệu chứng thổ huyết. Chị rất mừng vì cho đó như một dấu hiệu của cái chết, một lời gọi của Chúa Giêsu xa xăm nhưng vô cùng êm dịu. Chị trình cho bề trên biết và cũng tiếp tục dự các nghi lễ mùa chay. Chị còn được bề trên cử coi nhà tập nữa, chị vui vẻ nhận lời dù đã thấy mệt lắm.
Cũng trong thời kỳ này, tâm hồn Teresa bị Chúa thử thách thăng nhặt. Chị thấy mình ở trong bầu trời tối tăm không trăng sao. Teresa không còn tìm được một an ủi nào nữa. Chị thú nhận rằng nhiều khi chị như mất đức tin, chị nói “khi nói về hạnh phúc Thiên đàng, tôi không thấy vui tí nào, tôi chỉ nói theo lý trí thôi”. Nỗi khổ tâm vì nghĩ rằng bị Chúa bỏ rơi không làm cho Teresa chán nản, trái lại chị càng cố gắng nhiều hơn và bao giờ cũng chu toàn phận sự vì lòng mến Chúa. Cơn thử thách đó kéo dài cho tới khi Teresa tắt thở. Trong thời gian đau khổ ấy, chỉ có một lần chị được an ủi đôi chút.
Đó là một giấc mơ đến với Teresa vào một đêm tháng năm, Terêsa kể lại “tôi thấy mẹ Anna, đấng lập dòng kín của Pháp cùng hai nữ tu khác hiện đến. Tôi hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, xin cho con biết Chúa còn để con ở dưới thế lâu nữa không. Ngài sắp tới tìm con chưa?.
Mẹ mỉm cười hiền hậu:
- Ồ, sắp tới rồi, sắp rồi.... Mẹ hứa với con điều đó.
- Mẹ ơi! Thiên Chúa nhân từ có đòi con điều gì khác ngoài công việc và ước vọng bé nhỏ của con không?
Nghe tôi hỏi thế, nét mặt người sáng lên lạ thường, người nhìn tôi cách âu yếm
- Chúa nhân từ không đòi gì con nữa đâu. Ngài bằng lòng rồi, rất bằng lòng
Rồi mẹ Thánh ôm tôi trong tay làm cho tôi sung sướng vô cùng.”
Nhưng niềm hạnh phúc đó qua đi rất nhanh và tâm hồn Teresa lại chìm đắm trong tối tăm. Vào tháng một, nhà dòng tổ chức tuần chín ngày kính Thánh tử đạo, Vena. Teresa xin Thánh nhân chữa bệnh mình vì chị ao ước được sang kín Hà Nội lúc đó đang cần người. Trong những ngày cầu nguyện, Teresa hiểu rằng Chúa không muốn thế, và chị cứ vui lòng chịu đau khổ là hơn.
Bệnh lao trở thành trầm trọng và hành hạ Teresa ngày đêm, nhưng chị vẫn không muốn bỏ các công việc hằng ngày. Chị phải cố gắng hết sức trong mọi việc. Mỗi chiều, lúc về phòng riêng, Teresa mất hết nửa giờ mới leo hết cầu thang. Cứ lúc lại ngồi lấy hơi. Cởi áo đi ngủ thật là một hành khổ nặng nề cho Teresa và rồi Teresa nằm run, rồi suốt đêm trên chiếc giường nhỏ đợi sáng để lại tiếp tục công việc.
Teresa rất khổ tâm vì thấy mình không làm hết được mọi công việc như chị em và chị chỉ biết dâng cả ước vọng của mình cho Chúa. Chị luôn tỏ ra vui tươi, trầm tĩnh, giấu kín bệnh nặng của mình. Nhưng một hôm, Teresa giúp bàn trong bữa ăn, quá run rẫy nên xô cái mâm vào cửa làm vỡ kính. Hôm đó, Teresa khóc nghẹn ngào.
Từ tháng tư năm 1897, Teresa không dậy được nữa, chị em đặt Teresa trong chiếc xe ba bánh và đẩy đi trên những con đường nhỏ trong vườn. Teresa nghĩ đến người cha quá cố mấy năm trước cũng đã ngồi liệt như mình. Teresa thường ví mình như một cái thư, thân xác là phong bì còn tâm hồn là chữ. Và thời kỳ này chính là lúc Chúa Giesu “xé bao thư để đọc”. Như thế thì đáng vui lắm chứ, chứ sao lại buồn.
Trong 18 tháng trời nằm bệnh, Teresa luôn nhắc tới Thiên Đàng. Chị viết cho một chị nhà tập “chị hỏi em có muốn về Thiên Đàng không ư? Ồ, em rất muốn, nhưng cứ đợi bệnh nặng thì còn lâu lắm, em chỉ tin tưởng vào tình yêu thôi...”. Một hôm, bàn về những chuyện sẽ làm trên Thiên Đàng, Teresa đã dám quả quyết “chắc lúc đó, em muốn gì Chúa cũng làm vì khi em còn sống, Chúa muốn gì em cũng làm”.
Teresa thường nói “tôi muốn lên trời để làm ơn cho trần thế”. Một lần, Celine đọc cho Teresa nghe một đoạn sách nói về hạnh phúc Thiên Đàng. Teresa bảo “em không muốn hưởng hạnh phúc, em chỉ thích tình yêu thôi. Yêu mến, và được yêu trở lại thế gian này để làm cho mọi người yêu mến Chúa. Tình yêu đó là nguyện vọng của em”.
Vào cuối hè, căn bệnh của Teresa trở nên nguy kịch. Chị phải xuống nằm ở phòng bệnh. Ở đây, chị trải qua một cơn hấp hối lâu ghê gớm. Sức mạnh hỏa ngục vây hãm Teresa và làm chị phải chiến đấu luôn ngày đêm. Một đêm, Teresa xin chị khấn hộ, vẩy nước Thánh trên giường “ác quỉ vây quanh em, em không xem rõ, nhưng em cảm thấy rõ ràng. Nó nắm giữ em bằng một bàn tay sắt, và luôn cố gắng làm em thất vọng... Em không thể cầu nguyện được nữa, chỉ biết nhìn lên Đức Mẹ mà kêu lên Giêsu thôi”.
Tượng Đức Mẹ này là tượng đã chữa bệnh Teresa hồi chị 10 tuổi. Trong thời gian đó, Pauline và Marie luôn có mặt bên giường. Các chị thấy lòng tan nát khi phải nhìn em quằn quại trong bệnh hoạn và trong cơn chiến đấu nội tâm. Tuy nhiên, Teresa vẫn tỉnh táo và cầu nguyện. Chị còn thân mật pha trò với các nữ tu tới thăm. Chị an ủi các chị và nhắc nhở nhiều chuyện đầy kỉ niệm.
Chín giờ tối ngày 29 tháng 9, chỉ có mình Teresa bên giường. Bỗng cả hai nghe thấy tiếng vỗ cánh, rồi một con chim gáy tới đậu ở cửa sổ, se sẽ gáy lên giọng gù gù âu yếm. Hai chị em nhìn nhau và cùng nhớ lời Nhã Ca “chim gáy đã cất giọng, hỡi bồ câu của ta, hỡi em yêu dấu, hãy dậy và lại đây, vì mùa đông đã qua rồi”. Ngày hôm sau là ngày cuối cùng trong đời của Teresa.
Chiều hôm đó, Teresa nói với mẹ Bề trên “mẹ ơi, chén đắng đã đầy đến miệng... không bao giờ con dám nghĩ mình chịu đau khổ đến thế. Con chỉ cắt nghĩa nổi nhờ nguyện vọng tha thiết của con muốn cứu các linh hồn”. Rồi chị quả quyết “không bao giờ con ân hận vì đã tận hiến cho Chúa tình ái”.
Sau đó, Teresa trải qua hai giờ hấp hối và hồi 7 giờ chiều, chị tắt thở. Tay vẫn nắm chặt tượng Chịu nạn và miệng còn đang nói “Ôi lạy Chúa, con yêu Chúa, con yêu ..... Chúa”. Các nữ tu đứng chung quanh nghẹo đầu về một bên. Bỗng nhiên, chị mở choàng mắt ra, nét mặt tươi tỉnh ngây ngất vừa nhìn thấy một cảnh gì lạ lùng lắm rồi nhắm mắt lại.