HUYNH ĐOÀN GIÁO DÂN ĐA-MINH
I. KHÁI NIỆM
Huynh đoàn Giáo dân Đa Minh (tên gọi mới cuả Dòng Ba Đa Minh) là một Hiệp Hội được xác định theo điều 303 của Giáo Luật như đã đề cập ở bài trên. Họ là những giáo dân khát khao nên thánh và làm việc tông đồ giữa trần thế, theo tinh thần và đoàn sủng của Dòng Đa Minh, được các tu sĩ của Dòng hoặc các vị linh hướng thay mặt Dòng hướng dẫn.
II. NGUỒN GỐC
Huynh đoàn Giáo dân Đa Minh có nguồn gốc xa xưa từ thế kỷ XIII. Lúc bấy giờ ở miền nam nước Pháp xuất hiện nhóm lạc giáo Cathares lôi cuốn nhiều người từ bỏ đức tin chân chính của mình. Trong khi lãnh sứ mạng hoán cải họ, Thánh Đa Minh nhận thấy nhu cầu bức thiết là cần có trong Giáo hội những người giảng thuyết để truyền bá và bảo vệ đức tin. Ngài đã xin Tòa Thánh cho thành lập Dòng Anh Em Thuyết Giáo (Ordo Fratrum Praedicatorum), gồm các tu sĩ linh mục chuyên giảng thuyết. Dần dà, các giáo dân cũng cảm thấy được thu hút do các công việc tông đồ và gương sáng của các ngài và muốn được tham gia hoặc cộng tác với họ theo bậc sống mình. Từ đó Dòng Ba được hình thành đáp ứng khát vọng của những anh chị em giáo dân muốn tham gia vào sứ vụ tông dồ của Dòng qua mối giây linh hướng và thích ứng linh đạo Đa Minh vào bậc sống mình.
III. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
Lúc đầu, mối dây liên hệ này chưa có tính cách pháp lý mà chỉ là do lòng mộ mến đạo đức của các giáo dân cư ngụ chung quanh tu viện. Nhưng từ năm 1285, khi cha Bề trên Tổng quyền Monio de Zamora soạn thảo và công bố bản luật "Dòng Ba Đa Minh hãm mình" qui định những điều luật cơ bản để đón nhận các giáo dân gia nhập Dòng, hoạt động của họ trở nên có tổ chức và ngày càng lan rộng hơn. Qua nhiều Tổng hội, luật đó được hoàn chỉnh và ngày nay trở thành "Thủ Bản/Luật Sống Huynh Đoàn Giáo Dân Đa Minh" do Thánh Bộ Tu sĩ và Tu hội đời phê chuẩn ngày 15-01-1987.
Qua lời tuyên hứa tuân giữ Luật Sống Huynh đoàn, người giáo dân Đa Minh trở thành phần tử thực thụ của Dòng Thuyết Giáo, được hiệp thông những ân huệ thiêng liêng của Dòng, được chia sẻ sứ vụ tông đồ, và nhất là tham dự vào đoàn sủng của Dòng ở bậc giáo dân. Đặc tính thông thoáng của Luật Sống Huynh đoàn là gây ý thức và mời gọi các phần tử chu toàn nghĩa vụ của mình không phải như tôi tớ mang ách lề luật, nhưng như con cái được sủng ái. Vì vậy, những điều lỗi kỷ luật tự nó không thành tội (Tuyên cáo chung của Luật Chung 1987).
IV. HUYNH ĐOÀN GIÁO DÂN ĐA MINH NGÀY NAY
Thánh Công đồng Vatican II đã làm rõ nét địa vị và phẩm giá của người giáo dân trong thành phần Dân Chúa. Qua bí tích Rửa tội, người giáo dân được tháp nhập vào chức vụ của Chúa Kitô, dược tham gia vào chức vụ Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Ngài. Bởi đó, ngưới giáo dân có bổn phận tham gia vào sứ vụ căn bản của Giáo Hội là loan báo Tin Mừng. Chính đặc tính truyền giáo và loan báo Tin Mừng này đang làm cho kế hoạch tông đồ của thánh Đa Minh khi lập Dòng trở thành sứ vụ tông đồ hiện tại và mãi mãi về sau. Toàn thể gia đình Đa Minh trong đó có Huynh đoàn Giáo dân có nhiệm vụ thực hiện sứ vụ đó giữa lòng thế giới hôm nay.
Chính nơi Huynh đoàn Đa Minh mà người giáo dân sống thánh giữa đời và thánh hóa trần gian bằng chứng tá tập thể ngay tại địa phương nhất là môi trường giáo xứ.
Nhìn về quá khứ và lần theo chiều dài lịch sử, Huynh đoàn có bề dày truyền thống, có gia sản thiêng liêng và kinh nghiệm tông đồ thật phong phú. Huynh đoàn đã đóng góp cho Giáo hội nhiều vị thánh như Catharina Sienna, Louis M. Grignion de Montfort, Rosa Lima ... Trong thế kỷ XX cũng có các chân phước Bartolomeo Longo (1841-1926) và Phêrô Giorgio Frassati (1901-1925). Ngay tại Việt Nam trong số 117 các thánh tử đạo, 41 vị thuộc Dòng Đaminh, đặc biệt có sự góp mặt của 16 vị gồm 7 giáo dân, 6 thầy giảng và 3 linh mục triều tham gia Dòng Ba Đa Minh. Ngoài ra còn có rất nhiều các cán bộ tông đồ truyền giáo.
Theo niên giám của tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam, Huynh đoàn Giáo dân Đa Minh đang phát triển mạnh mẽ trên ba miền đất nước. Tổng số hội viên hiện nay là hơn 100,000 trong các giáo phận : Bắc Ninh, Bùi Chu, Hải Phòng, Thái Bình, Hưng Hóa, Buôn Ma Thuột-Kontum, Đà Lạt-Phan Thiết, Xuân Lộc, Tp. Sài-gòn, Phú Cường, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên…
Sở dĩ có sự tiến triển này là nhờ sự quan tâm đặc biệt của các Đấng bản quyền nhất là sự gầy dựng và nuôi dưỡng của các cha xứ linh hướng. Do được trang bị tinh thần tông đồ hăng say, các đoàn viên đã hoặc đang tình nguyện tham gia vào các lãnh vực sinh hoạt của giáo xứ như ban Hành Giáo, Ban Điều Hành các giới, Ca đoàn, Giáo lý viên, hội Chăm sóc bệnh nhân... và tích cực hoạt động trong các công tác truyền giáo, tong đồ, bác ái-xã hội.
Vì thế, nếu được hướng dẫn và huấn luyện đúng mức, các anh chị em giáo dân Đa Minh sẽ góp phần đáng kể làm nên sự thánh thiện cũng như thực thi sứ vụ tông đồ truyền giáo của Giáo Hội nói chung và ngay tại mỗi địa phương nói riêng.
TINH THẦN VÀ ĐOÀN SỦNG DÒNG ĐA MINH
I. ĐOÀN SỦNG LÀ GÌ ?
Đoàn sủng của một Dòng là ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần ban cho Đấng sáng lập và được Giáo hội chấp thuận. Dòng Đa Minh có danh hiệu chính thức là Dòng Anh Em Thuyết Giáo. Điều đó diễn tả đoàn sủng của Dòng là việc giảng thuyết.
II. ĐOÀN SỦNG DÒNG ĐA MINH
Như đã trình bầy, trong khi làm công tác hoán cải những người lạc giáo tại miền Nam nước Pháp, thánh Đa Minh ước mong thành lập một Dòng trong Giáo Hội hoàn toàn dấn thân vào việc giảng dạy đạo lý Tin Mừng cho tha nhân để họ khỏi bị lôi kéo vào con đường lầm lạc. Nên biết, vào thời thánh Đa Minh, quyền giảng thuyết thuộc về các Giám Mục. Ngay cả các đan sĩ và các linh mục cũng chưa được quyền này. Nguyện vọng của Ngài đã được Đức Giáo Hoàng Hô-nô-ri-ô III chấp thuận ngày 22-12-1216 với lời châu phê cho phép thành lập Dòng với mục đích "chuyên tâm tìm hiểu Lời Chúa và loan truyền danh Đức Ki-tô, Chúa chúng ta, khắp thế giới". Bản Hiến pháp đầu tiên của Dòng, được Tổng Hội lần thứ nhất họp ở Bologna năm 1220 khẳng định đoàn sủng của Dòng với những lời sau : "Dòng được thiết lập một cách đặc biệt nhằm để giảng thuyết và cứu độ các linh hồn. Vì thế, hết mọi hoạt động của chúng ta cần phải nhắm tới mục đích : Mưu ích cho linh hồn tha nhân".
III. GIA ĐÌNH ĐA MINH THỂ HIỆN ƠN ĐOÀN SỦNG
Ngay từ lúc sinh thời, thánh Đa Minh đã thúc đẩy các nữ tu (lúc đó là các nữ đan sĩ) tham gia vào việc giảng thuyết, bằng cách thiết lập nơi giảng thuyết ngay tại đan viện của họ [Trung tâm thánh thuyết hay Thánh thuyết cuộc]. Nhờ lời cầu nguyện của họ mà việc giảng dạy của anh em linh mục đạt nhiều hiệu quả. Ngài cũng còn khơi dậy hay cổ võ giáo dân hợp tác vào việc này để nhiều linh hồn được trở về với Chúa. Bản Luật Sống đầu tiên của Dòng Ba (1285) đã khuyến khích hội viên hãy trở nên "một người nhiệt thành bảo vệ chân lý đức tin Công giáo, theo cách thức riêng của mình". Như vậy, ngay từ thế kỷ thứ XIII, người giáo dân Đa Minh đã được khuyến khích trở thành nhà giảng thuyết theo cách thức riêng của mình, nghĩa là thực hành ơn gọi của một người đã được lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Luật Sống của người giáo dân hiện nay trong các số 1, 4, 5, 9, 11, 12 luôn lập lại điều đó.
Việc "giảng thuyết" không chỉ có nghĩa giảng dạy Lời Chúa trong thánh lễ nhưng còn mở rộng đến việc nghiên cứu, dạy dỗ, khuyên lơn, giảng giải, răn bảo . và sống chứng nhân giữa đời qua việc phục vụ mọi người trong tinh thần bác ái yêu thương để làm cho trần gian thấm nhuần tinh thần Tin Mừng.
IV. KẾT LUẬN
Nếu từ sau Công Đồng Vatican II, Giáo hội muốn nhấn mạnh đến việc rao giảng Tin Mừng là nghĩa vụ của tất cả các Ki-tô hữu (thực hiện chức năng ngôn sứ) thì người giáo dân Đa Minh đã coi đó là nghĩa vụ của mình từ lâu, bởi vì họ là phần tử của một Dòng đã được lập ra để giảng thuyết và cứu rỗi các linh hồn. Đó là con đường mà Thánh Đa Minh, theo gót các thánh tông đồ đã từng ôm ấp và thực hiện trong lịch sử Giáo Hội từ bảy thế kỷ qua. Đó cũng là con đường mà người giáo dân Đa Minh cũng được mời gọi cố gắng thực hiện, bởi vì đây là đoàn sủng mà họ được tham gia.
CÁC PHƯƠNG TIỆN CHÍNH YẾU
ĐỂ SỐNG ƠN GỌI ĐA MINH
Để thực hiện đoàn sủng Thuyết Giáo phục vụ Giáo Hội, Thánh Đa Minh và các tu sĩ tiên khởi, khi soạn thảo Hiến Pháp đầu tiên cho Dòng vào năm 1220, đã chọn bốn phương tiện chính yếu như là bốn cột trụ chống đỡ tòa nhà Đa Minh. Đó là :
1. Sống tinh thần cộng đoàn/Huynh Đoàn.
2. Tham dự việc cầu nguyện cộng đoàn.
3. Siêng năng học tập.
4. Tham gia vào sứ vụ tông đồ của Giáo hội và của Dòng
Tổng hội kế tiếp (1221) khẳng định bốn yếu tố này có thể được thích nghi theo thời gian và hoàn cảnh cho phù hợp với mục đích của Dòng, nhưng không bao giờ có thể thay đổi hay là xóa bỏ chúng. Noi gương các anh em tu sĩ Dòng, nếp sống của giáo dân Đa Minh cũng phải được thiết lập dựa vào bốn nền tảng trên.
1. SỐNG TINH THẦN CỘNG ĐOÀN/HUYNH ĐOÀN.
Theo thánh Đa Minh, việc giảng thuyết chỉ đạt được hiệu năng là do một cộng đoàn cùng chung nhau thực hiện chứ không phải do một cá nhân. Do đó các tu sĩ Đa Minh phải sống chung và làm các việc chung với nhau trong tinh thần hiệp thông.
Đối với bậc giáo dân, trước đây cũng có một số huynh đoàn tổ chức sống cộng đoàn, (như cộng đoàn mà thánh nữ Ca-ta-ri-na Si-ê-na là phần tử) nhưng thông thường vì phải chu toàn trách nhiệm trong gia đình, họ không thể sống chung như các tu sĩ. Dẫu vậy, họ cũng phải thể hiện tinh thần sống cộng đoàn trong một số điểm chính yếu sau:
- Trước hết họ ý thức mình là phần tử của một cộng đoàn sống tình huynh đệ gắn bó với nhau phỏng theo phần nào đời sống cộng đoàn các tu sĩ. Từ ngữ huynh đoàn nói lên ý nghĩa "cộng đoàn sống tình huynh đệ". Cộng đoàn này thường được một tu sĩ Dòng hay một giáo sĩ làm linh hướng để hướng dẫn về mặt đạo lý và đời sống thiêng liêng.
- Huynh đoàn là một pháp nhân theo Giáo Luật và Hiến pháp Dòng. Cộng đoàn được điều hành bởi vị đoàn truởng, thay mặt Bề trên Tổng quyền do cộng đoàn bầu lên cách dân chủ. Đoàn trưởng cùng với ban Phục vụ là những vị có quyền chấp nhận những thành viên mới. Một khi đã gia nhập huynh đoàn, do lời tuyên hứa, các đoàn viên phải tuân phục Bề trên Tổng quyền và những vị đại diện trong các việc điều hành và đời sống thiêng liêng.
- Ngoài các sinh hoạt thường xuyên, các đoàn viên phải tham gia nguyệt hội hàng tháng. Buổi nguyệt hội là thời gian đoàn viên biểu lộ sống tình huynh đệ hiệp thông sâu xa qua việc cầu nguyện, học tập, làm việc tông đồ.
2. THAM DỰ VIỆC CẦU NGUYỆN CỘNG ĐOÀN
Theo thánh Đa Minh, nhà giảng thuyết chỉ thu lượm được những hiệu quả siêu nhiên như hoán cải tâm hồn tha nhân và giúp họ sống đời Kitô hữu trọn hảo qua việc cầu nguyện, nhất là tích cực tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, nguyện các Giờ Kinh Phụng Vụ trong thánh đường. Vì những việc này được diễn ra trong nơi thánh trước sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể, được dưỡng nuôi qua Lời Chúa, và được trở nên sống động nhờ những nghi thức giúp chúng ta tham gia bằng toàn thể con người. Chính vì thế mà thánh Đa Minh, tuy đã để dành nhiều thời gian cho việc cầu nguyện tư, Ngài vẫn dành ưu tiên cho Kinh nguyện cộng đoàn mà Ngài coi đó như là một trong bốn phương tiện chính yếu của Dòng.
3. CHUYÊN CẦN HỌC TẬP
Một điều mới lạ hoàn toàn trong Giáo Hội và các Dòng Tu thế kỷ XIII mà thánh Đa Minh đã đem vào trong Dòng, đó là việc học hành. Đối với một Dòng được thành lập để giảng thuyết và bảo vệ đức tin, việc học tập trở thành một phương tiện không thể thiếu. Thánh Đa Minh đã thay thế công tác lao động chân tay bằng nghĩa vụ học hành và đó là một hệ quả tất nhiên của mục tiêu mới mà thánh Đa Minh đã muốn mang lại cho Dòng mình.
Để có thể thích hợp với Dòng, giáo dân Đa Minh cũng cần chăm chỉ học tập những chân lý để thông truyền và giảng dạy lại cho người khác.
Luật Sống giáo dân Đa Minh thôi thúc các đoàn viên như sau: "Là thành viên của Dòng, chúng ta tham dự vào sứ vụ tông đồ của Dòng bằng việc họ? tập" (Lc, số 4) và "chuyên cần học hỏi chân lý và luôn suy tư về những vấn đề thời đại dưới ánh sáng Đức Tin" (Lc, số 10). Để làm được việc này, Dòng cùng với Huynh đoàn thỉnh nguyện các cha xứ làm linh hướng để các ngài quan tâm dạy dỗ và hướng dẫn anh chị em trau dồi các vấn đề đạo lý và đời sống thiêng liêng (Lc, số 21c.)
Luật sống của Huynh đoàn giáo dân Đa Minh Việt Nam cũng đề cập đến việc học tập một cách chi tiết :
- Thứ nhất : Như các tu sĩ Đa Minh trong mỗi tu viện có một vị khuyến học, mỗi huynh đoàn cũng phải có một vị huấn đức. Vị này có nhiệm vụ tạo cơ hội và khuyến khích mọi người - nhất là những anh chị em trong thời gian thụ huấn - tích cực học tập.
- Thứ hai : Luật sống đưa ra một chương trình huấn luyện tiến cấp qua các giai đoạn để đoàn viên học hỏi về Lời Chúa, giáo lý Hội thánh, ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân theo ánh sáng đoàn sủng của thánh Đa Minh và thánh nữ Catarina, tinh thần Dòng, những dấu chỉ thời đại..
- Thứ ba : trước khi bước vào một giai đoạn mới, mỗi đoàn viên đều phải qua một cuộc khảo hạch.
- Thứ tư : theo gương các tu sĩ Đa Minh, giáo dân Đa Minh phải cố gắng khắc phục mọi khó khăn để học tập. Vì theo tinh thần Dòng, đó là một hình thức khổ chế thực sự hơn là các việc hy sinh khác.
4. THAM GIA VÀO SỨ VỤ TÔNG ĐỒ CỦA GIÁO HỘI VÀ CỦA DÒNG
Khi viết cho thánh Đa Minh và các anh em người trong sắc lệnh châu phê thành lập Dòng 1217, Đức Honoriô III đã khẳng định: "Đấng luôn làm cho Giáo hội thêm nhiều con cái... đã gợi cho các con cảm nghĩ đạo đức là chuyên tìm hiểu Lời Chúa ... đồng thời lại truyền giảng Danh Thánh Chúa Kitô, Chúa chúng ta khắp hoàn cầu".
Vậy Dòng Anh Em Thuyết Giáo do thánh Đa Minh thành lập, ngay từ thời sơ khai, như ai cũng biết để đặc cách chuyên việc giảng thuyết và cứu rỗi các linh hồn. Điều này được xác định rõ qua danh xưng: Dòng Anh em Thuyết giáo - Ordo Fratrum Praedicatorum .
Thực ra, sứ vụ tông đồ là bổn phận của Giáo hội, vì bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Là thành phần của Giáo hội, mỗi người Kitô hữu được mời gọi trở nên nhân chứng, làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh với đầy đủ tư cách của người giáo dân (Xc. Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, số 14; Tông huấn Sứ vụ Đấng Cứu Độ, số 77). Tuy nhiên, Dòng Anh Em Thuyết Giáo đã nhận lấy sứ vụ đó làm sứ vụ chuyên biệt của riêng mình để đồng hành với Giáo hội "loan truyền Danh Chúa Kitô khắp hoàn cầu" (HPNT, sô 1). Anh chị em giáo dân Đa Minh cũng được mời gọi tham gia vào sứ vụ này như Luật riêng số 29 của Huynh đoàn xác định : "Hội thánh hiện diện giữa lòng thế giới để tiếp tục loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân theo mệnh lệnh của Chúa Kitô. Đây cũng chính là sứ mệnh của Dòng Thuyết Giáo mà tất cả anh chị em đều được mời gọi thực hiện".
Tóm lại, với bốn yếu tố làm nên đời sống người giáo dân Đa Minh, thiết tưởng nó được nhìn nhận là kim chỉ nam và từ đó người giáo dân Đa Minh như tìm đuợc sức sống để thi hành sứ vụ của người Kitô hữu theo một đoàn sủng của một Dòng được đặc cách làm nhiệm vụ loan báo Lời Chúa.
Bất cứ ở nơi đâu, người giáo dân Đa Minh cũng phải và có trách nhiệm sống tinh thần của người Đa Minh theo điều kiện hoàn cảnh và môi trường nơi mình sinh sống.