22 Tháng Tư 20245:35 CH(Xem: 22)
Nguồn: Internet Thánh Gioan John Vianney và quyền năng của Áo Đức Bà Mầu Nâu.
22 Tháng Tư 20245:32 CH(Xem: 28)
Năm 2004, tôi đã dịch và viết nhiều sách trong năm này. Một trong những tác phẩm mà tôi đã dịch và sưu tầm có tên là 50 Tuần Cửu Nhật Gõ Cửa Thiên Đàng. Sau đây là bản dịch mà tôi đã cố gắng dịch thuật, bản chính ở phía dưới bằng tiếng Anh là từ Cố LM Don Dolindo Ruotolo. Ngài là một nhà thần bí người Ý. Những lời cầu này là do Chúa Giêsu ban cho Cố LM...
18 Tháng Tư 20249:08 CH(Xem: 63)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Cố LM Don Dolindo có những cảm nghiệm rất hay. Khi còn nhỏ, ngài chịu nhiều sự bách hại và khổ đau. Bằng cách nào mà ngài đã cố gắng ngửng đầu cao lên khỏi bể nước và luôn vui vẻ? Chúa Thánh Thần đã khơi nguồn cảm hứng cho ngài với lời cầu nguyện đơn sơ như sau:
18 Tháng Tư 20248:35 CH(Xem: 51)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Lúc gần đây có nhiều người biết đến hiện tượng: "Padre Pio of Naples", đó là điều mô tả về cố linh mục Don Dolindo Ruotolo. Ngài qua đời vào năm 1970, chỉ hai năm sau khi Padre Pio qua đời vào năm 1968. Ngài đang làm việc một cách hữu hiệu từ Thiên Đàng. Ngài an ủi, dỗ dành, chữa lành cho rất nhiều người khỏi chứng bịnh lo âu,
18 Tháng Tư 20247:58 CH(Xem: 41)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Có một gương sáng lớn nhất, đó là chính Chúa Giêsu. Kẻ dữ độc ác đã đóng đinh Chúa Giêsu, Con Chí Thánh của Chúa Cha ở trên cây thánh giá. Lúc đó, Satan nghĩ rằng hắn đã chiến thắng. Nhưng sự thật thì trái lại. Đó là bởi vì Chúa đã biến đổi sự dữ ấy thành sự thiện.
18 Tháng Tư 20243:58 CH(Xem: 51)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Sr. Emmanuel viết: Có một phụ nữ gõ cửa nhà tôi. Trông cô ấy thật là quá đau khổ, xuống sắc và thiểu não. Đôi mắt, đôi má và cái miệng của cô trông rất là buồn thảm và héo hắt. Cô bắt đầu kể lể về mọi nỗi thống khổ của mình.
17 Tháng Tư 20249:07 CH(Xem: 48)
https://luisapiccarreta.com/other-category/cristina-montella-sister-rita-of-the-holy-spirit-the-little-girl-of-padre-pio/ 1. Thời thơ ấu Nữ tu Cristina Montella được sinh ra tại vùng Cercola (Naples) vào ngày 3/4/1920. Khi cô bé được 2 tuổi, cô đang ở chơi nhà một người cô thì nhìn thấy một bức hình của Thánh Gerard Majella,
17 Tháng Tư 20244:44 CH(Xem: 50)
Đức Mẹ Guadalupe hiện ra ở Tepeyac, Mexico City, nước Mễ Tây Cơ từ ngày 9/12/1531 đến ngày 12/12/1531 và chữa lành rất nhiều người, dù rằng người ta đã chết nhưng vẫn được Mẹ cho sống lại.
17 Tháng Tư 20241:58 CH(Xem: 42)
Tồi vừa được xem một video clip tiếng Anh ngắn. Cậu bé chừng 6 tuổi mơ thấy mình lên Thiên Đàng. Sáng hôm sau, cậu kể câu chyện mẹ mình: -Mẹ ơi, con gặp một người chị của con ở Thiên Đàng. -Ủa, con chỉ có một người chị ở đây thôi mà.
13 Tháng Tư 20249:23 CH(Xem: 64)
Cảm nghiệm của một thanh niên làm nghề taxi: Con gặp khó khăn trong việc làm nên con quyết định làm nghề tài xế taxi.

LỜI CHÚA: LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY CHÚA NHẬT TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN, NĂM B SỐNG LỜI CHÚA TIN MỪNG : Mc 10,46-52

23 Tháng Mười 20212:35 CH(Xem: 568)

23-10LỜI CHÚA: LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY

CHÚA NHẬT TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN, NĂM B

SỐNG LỜI CHÚA

TIN MỪNG : Mc 10,46-52

Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

46 Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, anh ta tên là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. 47 Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng : “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !” 48 Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng : “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !” 49 Đức Giê-su đứng lại và nói : “Gọi anh ta lại đây !” Người ta gọi anh mù và bảo : “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !” 50 Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su. 51 Người hỏi : “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” Anh mù đáp : “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” 52 Người nói : “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

SUY NIỆM-SÁNG ĐÔI MẮT ĐỨC TIN

Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng. Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối như mực. Nhưng trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón.” Mọi người làm theo. Trong tăm tối, chẳng ai thấy gì cả, họ bắt đầu sợ hãi. Rồi người hướng dẫn nói một câu khiến các sinh viên phải nhớ mãi: “Đây là tình trạng của những người mù.”

Các sinh viên Trong câu chuyện trên đã hiểu sự thống khổ của người mù. Họ không chỉ khổ trong thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Nhưng trong nỗi thống khổ ấy, anh mù Batimê trong Tin Mừng hôm nay lại sáng con mắt Đức tin, vì anh nhận ra Đức Giêsu là “con vua Đavít” - Đấng Cứu Thế - Người có quyền năng để chữa anh khỏi mù loà. Trong khi đó, những người sáng mắt xung quanh Đức Giêsu lại không thấy và nhận ra điều đó. Với đôi mắt đức tin, anh không sợ bị cấm cản, doạ nạt. Anh lớn tiếng kêu xin một cách thống thiết. Và với đôi mắt đức tin, anh liệng bỏ tấm áo chòng, vốn là phương tiện cho anh sinh sống qua ngày. Anh từ bỏ thân phận mù loà, đời sống tối tăm tội lỗi để nhận lãnh ánh sáng của chân lý và tình yêu nơi Đức Giêsu.

Còn mỗi người chúng ta hôm nay thì sao? Liệu chúng ta có nhận ra Đức Giêsu đang hiện diện, để kêu xin với Người rằng : “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” hay không?

(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)

LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY

Xin Chúa cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con tin nhận và tuyên xưng Ngài là tình yêu và sự sống đích thực trong cuộc đời chúng con. Amen.

TU ĐỨC SỐNG ĐẠO

KHUÔN MẪU THÁNH THIỆN THEO ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

Trích Thời sự Thần học – Số 93, tháng 08/2021, tr. 122-144

Ivan Salvadori

Mặc dù ĐTC Phanxicô tuyên bố không muốn viết một khảo luận về sự thánh thiện, nhưng tông huấn “Gaudete et exsultate” (được ban hành ngày 19-3-2018) có thể coi như tóm tắt quan điểm của ngài về sự thánh thiện. Dựa theo cấu trúc của văn kiện, linh mục Ivan Salvadori, giám đốc đại chủng viện Como (Italia), đã trình bày nội dung qua 5 điểm sau đây :

1. Trọng tâm của sự thánh thiện : thường nhật, cộng đồng, cá nhân, tiệm tiến

2. Hai kẻ thù tinh vi của sự thánh thiện : thuyết ngộ giáo và thuyết Pêlagiô

3. Dựa theo tinh thần bát phúc

4. Vài đặc trưng của sự thánh thiện trong thế giới hôm nay

5. Đời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu

Đây là bài thuyết trình thường huấn cho Phong trào Công giáo Tiến hành giáo phận Como, ngày 1/5/2019. Nguyên văn : “Non c’é che una tristezza, quella di non essere santi”. Struttura e significato della « Gaudete ed Exsultate”[1]. Nguồn : http ://www.azionecattolicacomo.it › 2019/05 › Ga…

Chữ viết tắt : GE = Gaudete et Exsultate. ĐTC = Đức thánh cha

————

Trong cuốn tiếu thuyết « Khách sạn của những phụ nữ buồn », nữ văn sĩ Marcela Serrano, người Chile, có đoạn viết như sau : « Tôi chẳng tha thiết gì với sự thánh thiện. Hoặc ít là tôi chẳng còn tha thiết nữa, bởi vì trước đây, có lần tôi đã đi tìm nó. Nhưng lúc ấy, tôi không biết những giới hạn và sự nhàm chán của nó »[2]. Đó là lời tuyên bố của một nhân vật trong tiểu thuyết, cho thấy nỗi thất vọng của mình trước tất cả mọi lý tưởng về sự thánh thiện. Đã có một thời, người ấy đã đi tìm, nhưng sau đó đã cương quyết từ chối sau khi khám phá những giới hạn của mình, và bắt đầu nghi ngờ rằng sự thánh thiện không đồng nghĩa với vui tươi mà là với nhàm chán.

Chúng ta nên thành thực tự hỏi : con đường thánh thiện có còn là đề xuất cho một cuộc đời sung mãn và thành tựu, có khả năng làm thỏa mãn những ước ao và khát vọng thâm sâu nhất không ? Hay – như nhiều người vẫn nghĩ – nó là biểu hiện của một cuộc đời hụt hẫng, bị cầm hãm và cắt xén những khát vọng hạnh phúc, vì thế cần phải tìm hạnh phúc ở nơi khác ?

Tông huấn thứ ba của ĐTC Phanxicô được dành để bàn về sự thánh thiện và lấy tựa đề từ hai động từ mà Chúa Giêsu đã dùng để khích lệ các môn đệ đang chịu bách hại và sỉ nhục vì Người : « Gaudete et Exsultate », « hãy vui mừng và hoan hỉ » (Mt 5,12)[3]. Như thế, phần nào tựa đề đã cho chúng ta một chìa khóa để hiểu được đề tài thánh thiện theo ĐTC Phanxicô : vui mừng.

Đức thánh cha – vang âm của toàn thể Kitô giáo – nhận thấy niềm vui như là kết quả trực tiếp nhất của cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Niềm vui ở đây là « sự an ủi thiêng liêng » mà thánh Inhaxiô đã viết trong sách Linh-thao : đó là « niềm vui nội tâm thúc đẩy và thu hút về những thực tại trên trời và sự cứu rỗi linh hồn, mang lại cho linh hồn sự tĩnh lặng và an bình trong Đấng Tạo Thành và Chủ Tể »[4]. Như ta cũng đọc thấy trong tống huấn « Niềm vui Tin mừng » (Evangelii Gaudium), đó là « niềm vui tràn ngập trái tim và cuộc đời của những người đã gặp gỡ Chúa Giêsu »[5]. Đây cũng là từ ngữ biểu lộ động lực cơ bản của Kitô giáo trong hai chuyển động gắn bó với Đức Kitô và được sai đi vào thế giới. Thực vậy, một đàng niềm vui thúc đẩy người môn đệ gắn bó chặt chẽ hơn với Đức Kitô ; đàng khác, nó cũng là sức mạnh mời gọi người môn đệ ra khỏi chính mình để chuyển đạt cho mọi người biết rằng mình đã tìm được giải đáp cho bí quyết cuộc đời ở nơi gặp gỡ với Thiên Chúa.

Mục đích của tông huấn không phải là cung cấp một khảo luận về sự thánh thiện, với định nghĩa và phân loại, nhưng – một cách khiêm tốn hơn và có lẽ hữu ích và cần thiết hơn – đó là « làm vẳng lại một lần nữa, lời mời nên thánh, tìm cách du nhập vào khung cảnh hiện đại, cũng với những rủi ro, thách đố và cơ may » (GE 2). Như vậy, điều mà ĐTC muốn nhắc nhở trong tông huấn này « tiên vàn là lời mời nên thánh mà Chúa gửi đến mỗi người chúng ta » (GE 10) hôm nay ; việc cải tổ Giáo hội cũng như hạnh phúc của mỗi người đều phải đi ngang qua cửa này.

Cuộc cải tổ mà ĐTC mong mỏi nơi Giáo hội không nằm ở kế hoạch tổ chức và các « chiến lược », nhưng – sâu xa hơn, ở chỗ nó chỉ có thể thực hiện bằng cách đặt Thiên Chúa làm tâm điểm, tìm kiếm và gặp thấy Người trong hết mọi việc, theo châm ngôn thời danh của thánh Inhaxiô : « Curet primo Deum » [6] (mà ta có thể diễn dịch thế này : hãy làm thế nào để luôn luôn đặt Thiên Chúa ở ngay trước mắt, trước hết mọi sự).

Rảo qua 5 chương của văn kiện, tôi muốn nắm bắt cấu trúc của nó và làm nêu bật những chủ đề chính. Cách riêng, tôi muốn tìm cách trả lời những câu hỏi sau đây : sự thánh thiện Kitô giáo hệ tại điều gì ? Đâu là những nét nổi bật hơn cả ? Sự thánh thiện tăng trưởng trong dân Thiên Chúa bằng cách nào, và đâu là những kẻ thù ngăn chặn nó ?

1– Tâm điểm của sự thánh thiện : thường nhật, cộng đồng, cá vị và tiệm tiến

Khởi điểm của toàn thể cuộc đàm đạo – được khai triển trong chương I – ở chỗ ý thức rằng sự thánh thiện là vận mệnh ơn huệ của mỗi người. Vận mệnh bởi vì là tiếng gọi của Thiên Chúa Tam Vị mà cũng vì là khát vọng nằm trong thâm tâm mỗi người. Không có sự thánh thiện nằm bên ngoài cuộc gặp gỡ giữa sự tự do vô hạn của Thiên Chúa, Đấng trao ban sự sống và hạnh phúc đích thực cho con người khi dựng nên nó, và sự tự do hữu hạn của con người (GE 1), có thể quyết định trả lời có hoặc không cho lời mời ấy. Ở đây, ĐTC lấy lại một tư tưởng then chốt của Lumen gentium : tất cả đều được mời gọi nên thánh[7], với mẫu gương là Chúa Giêsu « Đấng khai mở và kiện toàn đời sống thánh thiện » (LG 40).

Sau khi đọc kỹ bản văn, tôi nghĩ là theo ĐTC Phanxicô, có bốn chỉ số nếu phối hợp chặt chữ với nhau sẽ cho ta một bức chân dung rõ nét của sự thánh thiện Kitô giáo : thường nhật, cộng đồng, cá vị, tiệm tiến.

(a) Một sự thánh thiện thường nhật. Yếu tố thứ nhất trong tư tưởng của ĐTC là « sự thánh thiện thường nhật », diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của Dân Thiên Chúa[8]. Thánh Linh « đổ tràn ơn thánh thiện xuống cho toàn thể đoàn dân trung tín của Thiên Chúa » (GE 6). Cái nhìn của ĐTC không chỉ giới hạn vào sự thánh thiện của những vị thánh đã được tuyên phong, nhưng là sự thánh thiện được khuếch táng qua chứng tá của biết bao nhiêu anh chị em, nhờ đó chúng ta được thôi thúc đừng dừng lại dọc đường, nhưng hãy tiến thẳng đến cùng đích (GE 3). Ngài nói : « Tôi thích ngắm nhìn sự thánh thiện trong Dân Thiên Chúa kiên trì, nơi những cha mẹ âu yếm giúp cho con cái được lớn lên, nơi những người nam nữ lao lực để kiếm miếng bánh mang về nhà, nơi những bệnh nhân, nơi những nữ tu cao niên vẫn tươi cười. Chính trong sự kiên trì tiến tới mỗi ngày mà tôi nhận thấy sự thánh thiện của Giáo hội chiến đấu » (GE 7).

Đây là một tư tưởng thường gặp nơi các câu nói của ĐTC, chẳng hạn như trong một cuộc phỏng vấn dành cho bán nguyện san La Civiltà Cattolica hồi tháng 8 năm 2013[9]. Trong cuộc phỏng vấn ấy, ngài cũng nói đến một “sự thánh thiện của tầng lớp trung lưu”, mà tất cả chúng ta đều có thể tham gia. Thành ngữ này được trích từ ông Joseph Malègue, một nhà văn người Pháp. “Sự thánh thiện có thể tìm thấy trong đời sống thường ngày và giữa những người gần gũi với chúng ta, chứ không phải nơi những khuôn mẫu lý tưởng, trừu tượng hay siêu phàm »[10]. Cũng chẳng nên tìm những khuôn mẫu không hề sai sót, nhưng là những con người « ngay cả giữa những bất toàn và sa ngã, vẫn tiếp tục tiến tới và làm đẹp lòng Chúa » (GE 3). Như vậy, không phải là những con người hoàn thiện, nhưng là sẵn sàng.

(b) Một sự thánh thiện cộng đồng. Chỉ số thứ hai có thể đặt tên là sự thánh thiện cộng đồng. ĐTC muốn nói rằng sự thánh thiện chẳng bao giờ là kết quả của một sự chinh phục cá nhân, nhưng được lồng trong đời sống của một thân thể Dân Thiên Chúa. Người viết như sau : « Không ai tự cứu độ riêng mình, nhưng Thiên Chúa lôi kéo chúng ta nhờ những mối dây tương quan được thiết lập trong cộng đồng nhân loại : Thiên Chúa muốn chúng ta đi vào động lực của một dân tộc » (GE 6). Thực ra trong tông huấn Evangelii gaudium Người đã nói đến một thứ « huyền nhiệm » chung sống[11]. Mặt khác, nếu Giáo hội là một dân tộc, thì sự thánh thiện phải mang tính « toàn dân »[12], chứ không phải là tuyển lọc.

(c) Một sự thánh thiện cá vị. Sự thánh thiện cộng đồng không loại bỏ đặc tính thứ ba là cá vị. Sự thánh thiện luôn gắn liền với một con người độc đáo. Không có những khuôn mẫu trừu tượng hoặc lý tưởng có thể ăn khớp cho hết mọi người. Sự thánh thiện mỗi ngày thật là đơn giản, được đan dệt bởi những chuyện vụn vặt, nhưng mỗi người cần nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa đã ủy thác cho mình. Thật là ấn tượng khi thấy ĐTC Phanxicô nhắc đến những thí dụ cụ thể hơn là những khuôn mẫu trừu tượng. Thiên Chúa muốn cho mỗi người chúng ta diễn tả sự thánh thiện của mình một cách độc đáo. Vì thế, cần phải khám phá con đường riêng, cách thức nên thánh riêng cho phép ta diễn tả được cái điểm ưu tú nhất của mình (GE 11). « Xin Chúa cho bạn biết nhận ra đâu là lời, sứ điệp của Chúa Giêsu, mà Người muốn nói cho thế giới qua cuộc đời của bạn » (GE 24).

(d) Một sự thánh thiện tiệm tiến. Chỉ số cuối cùng của sự thánh thiện có thể nói là tính cách tiệm tiến. Cần phải cân nhắc những giới hạn của con người, con đường tiến bộ của mỗi người, cũng như mầu nhiệm của ân sủng tác động trong thâm tâm của mỗi người : « Ân sủng tác động trong lịch sử và thường là một cách tiệm tiến. Vì thế nếu chúng ta chối bỏ tính cách lịch sử và tiệm tiến này, thì trên thực tế chúng ta có thể đi đến chỗ phủ nhận và ngăn chặn nó, mặc dù chúng ta đề cao nó bằng lời nói » (GE 50).

Do đó, sự thánh thiện nổi lên từ toàn bộ cuộc sống, chứ không phải từ việc phân tích tỉ mỉ tất cả mọi chi tiết và tất cả mọi hành động của một con người. Chính là từ toàn bộ cuộc sống – bao gồm cả những giới hạn và sai lầm – mà nổi lên mầu nhiệm của một con người có khả năng phản chiếu Đức Giêsu Kitô vào thế giới hôm nay (GE 23). Theo lời ĐTC, nguy cơ trầm trọng nhất nằm ở chỗ « khẳng định Thiên Chúa ở nơi không có Người, bởi vì Người hiện diện cách huyền nhiệm trong cuộc đời mỗi người, trong cuộc sống mỗi người theo như Người mong muốn » (GE 43). Trong đức tin, ta không thể cư xử như là những kiểm-soát-viên cuộc đời của người khác. Đây là một điều rất quan trọng, theo Đức Phanxicô kế thừa tinh thần của thánh Inhaxiô Loyola là « tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa trong tất cả mọi sự »[13], đến nỗi ĐTC dám viết rắng « ngay cả bên ngoài Giáo hội Công giáo và trong những khung cảnh rất khác biệt, Thánh Linh gợi lên những dấu chỉ của sự hiện diện của Người để giúp đỡ ngay cả các môn đệ của Đức Kitô »[14].

2– Hai kẻ thù tinh vi của sự thánh thiện

Trong chương II của tông huấn, ĐTC lưu ý đến hai sự sai lầm len lỏi vào văn hóa và cung cách của con người thời nay, và thu hút nhiều người. Đây là hai thái độ vẳng lại hai lạc thuyết đã bị phi bác vào các thế kỷ đầu tiên : thuyết ngộ đạo và thuyết Pêlagiô[15]. ĐTC coi hai lạc giáo này như là sự bóp méo sự thánh thiện (GE 35), bởi cả hai đều muốn cho mình thay thế Chúa Kitô và Tin mừng của Người. Nói cách khác, thuyết ngộ giáo và Pelagiô muốn loại Đức Kitô ra khỏi trung tâm đức tin và lấy các học thuyết khác xem ra hấp dẫn để thay thế : thuyết ngộ giáo cho rằng chúng ta có thể trở nên tốt hơn nhờ sự hiểu biết (gnosis) ; thuyết Pelagiô cho rằng sự hoàn thiện nằm ở nỗ lực cá nhân, ý muốn cá nhân để thay đổi thế giới. « Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu cũng như tha nhân chẳng còn chỗ đứng nữa » (GE 35) : chỉ có sự hiểu biết của chúng ta hoặc sự cố gắng của chúng ta mà thôi.

(a) Thuyết ngộ giáo. Nguy cơ thứ nhất đe dọa sự thánh thiện là thuyết ngộ giáo (hoặc tân ngộ giáo). Đây là một trong những lạc thuyết mạnh mẽ nhất trong Giáo hội vào hồi thế kỷ II và III[16]. Theo thuyết ngộ giáo, trong con người có một yếu tố thần linh (một « mảnh vụn thần linh ») rơi vào thế giới vật chất và hiện bị giam giữ trong vật chất do bản tính xấu xa của nó. Sự cứu độ có thể đạt được nhờ sự hiểu biết (gnosis tiếng Hy-lạp) chân lý : duy sự hiểu biết mới giúp cho cái yếu tố thần linh được giải thoát khỏi vật chất và trở về thiên giới[17].

Tuy rằng thuyết ngộ giáo không còn ra mặt dưới hình dạng như hồi các thế kỷ II-III nữa, nhưng không thể nói được là nó đã hoàn toàn biến mất. Trái lại, có một hình thức mới, tức là tân-ngộ giáo – thu gọn đức tin vào một hình thức hiểu biết, trong đó, nói cho cùng, chỉ còn có đạo lý, các tư tưởng và suy tư của chúng ta. Người ta không còn nói đến việc gặp gỡ Chúa Kitô nữa.

Đức Thánh Cha nhắc lại rằng sự hoàn thiện của con người không được đo lường bằng số lượng những dữ liệu hoặc kiến thức thu tích được, nhưng là « cấp độ đức mến » (GE 36). Thuyết ngộ giáo không phát sinh từ tà ý, nhưng từ chỗ hời hợt : từ một tâm trí bị xơ cứng vì bách khoa từ điển của những ý tưởng trừu tượng, nhưng không có khả năng đụng chạm đến thể xác đau khổ của Đức Kitô nơi tha nhân (GE 20). Hay nói theo một dụng ngữ của Đức Phanxicô, chúng ta đối diện với một « Giáo hội không có dân »[18], nghĩa là một Giáo hội đầy dẫy những ý tưởng, nhưng lại không có khả năng lắng nghe các đòi hỏi của dân chúng. Ngay cả đạo lý cao siêu của Giáo hội, nếu thiếu mất sự nối kết với thể xác của dân chúng, thì cũng trở nên một « lâu đài bằng giấy », như đã nói trong tông huấn Evangelii gaudium (số 39). Trong một bài giảng Thánh lễ ở nhà thánh Marta, Người nói : « Hành vi thánh thiện cao cả nhất của chúng ta chính là nơi thể xác của người anh em và nơi thể xác của Đức Giêsu Kitô »[19].

Nói tóm lại : thuyết ngộ giáo càng trở thành nguy hiểm khi nó xúi giục chúng ta tin rằng mình sẽ khá hơn nhờ sự hiểu biết, hoặc đức tin là một hệ thống tư tưởng giúp chúng ta chế ngự thực tại. Khuyết điểm chính của nó nằm ở chỗ không có khả năng tìm hiểu lịch sử cụ thể của mỗi người, và muốn « làm bá chủ mầu nhiệm Thiên Chúa và ân sủng, cũng như mầu nhiệm cuộc đời của người khác », như ta đọc thấy ở số 39 của tông huấn.

(b) Thuyết Pêlagiô. Nguy cơ của thuyết này ở chỗ cho rằng sự tiến bộ của ta không hệ tại các ý tưởng (sự hiểu biết hay đạo lý) nhưng tùy thuộc vào sự cố gắng cá nhân. Trong trường hợp này cũng vậy : vị trí của Đức Kitô được thay thể bằng một sản phẩm của con người. Vào thời xưa, phái Pêlagiô đã đặt nặng cố gắng cá nhân và ý chí đến nỗi quên rằng sự thánh thiện tiên vàn là công trình của ân sủng, hoa trái của sự ngoan ngoãn với Thánh Linh. Không có hành vi nào của con người mà không được ân sủng Chúa nâng đỡ.

Đứng trước sự lệch lạc này, Giáo hội kể từ công nghị Orange II (năm 529) đã dạy rằng không phàm nhân nào có thể lập công trạng hay mua lấy quà tặng của ân sủng ; mọi sự hợp tác của con người với ân sủng cũng là quà tặng của chính ân sủng. « Thậm chí cả lòng ước ao được nên thanh sạch cũng là do Thánh Linh tuôn đổ và tác động trong ta », như ta đọc thấy trong điều luật IV của công đồng[20].

Hệ luận là con đường nên thánh cần được đức khiêm tốn tháp tùng. Điều này còn được lặp lại trong chương IV của tông huấn, khi mà đức khiêm tốn được móc nối với những hoàn cảnh chịu nhục mạ. « Đức khiêm tốn đâm rễ trong tâm hồn nhờ những việc hạ mình ; nếu không có hạ mình thì chẳng có khiêm tốn cũng chẳng có thánh thiện. Nếu bạn không có khả năng chịu đựng hoặc thực hiện những sự hạ mình, thì bạn chẳng khiêm tốn cũng chẳng thánh thiện gì » (GE 118).

Thử hỏi : ai là những người theo thuyết tân Pelagiô? Theo Đức Phanxicô, đó là những Kitô hữu nghĩ rằng mình nên trọn lành nhờ sức riêng, và như vậy, họ không còn tôn thờ Chúa là nguồn mọi ân sủng mà là tôn thờ chính mình. ĐTC đưa ra nhiều thí dụ khác nhau : họ bị ám ảnh bởi luật lệ ; họ ưa thích khoe các thành tích xã hội hoặc chính trị ; họ muốn phô trương phụng vụ, đạo lý và uy tín của Giáo hội ; họ tìm hư danh trong các hoạt động ; họ thích thú những công tác tôn vinh bản thân (x. GE 57). Từ đó, ta thấy một thứ Kitô giáo nặng về quy tắc luật lệ, nhưng lại thiếu hấp dẫn vì vẻ đơn sơ (GE 58).

Dù sao, thật đáng ngạc nhiên khi nhận ra rằng hai đối thủ của sự thánh thiện – ngộ giáo và Pêlagiô – có liên quan đến hai quan năng chính yếu của con người : tư tưởng (ngộ giáo) và ý muốn (Pêlagiô). Điều này ra như muốn nói rằng hai kẻ thù của sự thánh thiện không đến từ bên ngoài chúng ta, nhưng có gốc rễ trong ta ; thậm chí, chúng nằm ngay ở hai khả năng – kiến thức và ý muốn – làm nên sự cao cả của con người.

Xin xem tiếp tuần sau.

_______________

[1] ĐTC PHANXICÔ, Tông huấn « Gaudete Et Exsultate » về ơn gọi nên thánh vào thời nay (2018). Câu nói « Duy chỉ có một điều buồn là … không làm thánh » là của ông León Bloy (x. L. BLOY, La donna povera, Reggio Emilia 1978, 375), được trích dẫn trong tông huấn, chú thích 32.

[2] X. M. SERRANO, L’albergo delle donne tristi, Milano 2001, 173.

[3] X. A. SPADARO, « Gaudete ed Exsultate. Radici, struttura e significato della Esortazione apostólica di papa Francesco », in La Civiltà Cattolica 169 (2/2018), 107-123 ; M.G. MASCIARELLI, « Santi. Guida di lettura alla terza esortazione del pontificato », in Il Regno. Attualità 63 (1/2018), 198-199 ; M. GRONCHI, « Introduzione », in Francesco, « Gaudete ed Exsultate » ; A. NUGNES, « Ripartire dalla santità. Un invito alla lettura di Gaudete et Exsultate », in Rassegna di Teología 59 (2018), 357-371 ; E. DAL COVOLO, « Invito alla lettura di Gaudete et Exsultate », in PATH 17 (2018), 231-239.

[4] IGNAZIO DI LOYOLA, Esercizi Spirituali, n. 316.

[5] ĐTC PHANXICÔ, Tông huấn « Evangelii Gaudium » (2013), 1.

[6] FORMULA INSTITUTI của Dòng Tên, n. 1.

[7] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế Tín lý về Hội thánh « Lumen Gentium » (1964), số 39-42.

[8] X. A. NUGNES, « Ripartire dalla santità » 366-367.

[9] X. A. SPADARO, « Intervista a Papa Francesco », in La Civiltà Cattolica 164 (3/2013), 460

[10] A. SPADARO, « Gaudete ed Exsultate. Radici, struttura e significato », 109.

[11] ĐTC PHANXICÔ, « Evangelii Gaudium », 87.

[12] X. M.G. MASCIARELLI, « Santi. Guida di lettura alla terza esortazione del pontificato », 198.

[13] IGNAZIO DI LOYOLA, Esercizi Spirituali, 230-237 ; Id., Autobiografía, 99 ; Id., Costituzioni della Compagnia di Gesu, n. 288.

[14] ĐTC PHANXICÔ, « Gaudete ed Exsultate », 9 (X. ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông thư « Novo Millennio Ineunte », 56).

[15] Việc chiến đấu chống lại thuyết ngộ giáo và thuyết Pelagiô được đề cập nhiều lần trong huấn quyền của ĐTC Phanxicô, chẳng hạn như tông huấn Evangelii gaudium số 67, 93 ; Diễn từ dành cho phái đoàn hành hương giáo phận Breada (22-6-2013 ; Diễn từ dành cho những người tham dự cuộc họp lần V của Giáo hội Italia (Firenze 10.11.2015). Đó cũng là những điểm được nêu bật trong lá thư Placuit Deo của Bộ Giáo lý Đức tin.

[16] X. J.N.D. Kelly, Il pensiero cristiano delle origini, Bologna 1984, 33.

[17] X. B. SESBOÜÉ, « Primi discorsi cristiani e tradizione della fede », in B. SESBOÜÉ, ed., Storia dei Dogmi, I, Il Dio della Salvezza. I-VIII secolo. Casale Monferrato 1996, 31.

[18] X. Bài giảng Thánh lễ ở nhà thánh Marta (ngày 11.11.2016), L’Osservatore Romano (12.11.2016), 8.

[19] ĐTC PHANXICÔ, Bài giảng Thánh lễ (ngày 07.03.2014).

[20] Denzinger-Huenermann 374.