Sự sống gươm giáo
Bài Đọc I: (Năm I) Xh 1, 8-14. 22
Đáp Ca: Tv 123, 1-3. 4-6. 7-8
Phúc Âm: Mt 10, 34 - 11, 1
Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XV Thường Niên là bài phúc âm tiếp theo loạt bài phúc âm của Thánh ký Mathêu về huấn từ sai đi của Chúa Giêsu với 12 tông đồ. Bài phúc âm hôm nay là phần cuối cùng của bài huấn từ sai đí ấy, một phần huấn từ bao gồm 2 điểm chính yếu liên quan đến "gươm giáo" và "bát nước".
"Gươm giáo": "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó".
"Bát nước": "Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".
Trước hết về "gươm giáo". Nếu chúng ta chỉ lấy nguyên câu Chúa Giêsu nói ở ngay đầu bài phúc âm hôm nay: "Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo", thì chắc chắn Người là tên phản kitô, vì giáo huấn của Người chất chứa những gì là phản nhân bản, chia rẻ, vô luân thường đạo lý. Thế nhưng, căn cứ vào ý tưởng của toàn đoạn văn, Người quả là chí lý khi khẳng định một câu nói lạ lùng hầu như lạc giáo như thế. Và nhất là căn cứ vào ý nghĩa Thánh Kinh của "gươm giáo" là chính Lời Chúa "sắc hơn gươm hai lưỡi" (xem Do Thái 4:12).
Ở chỗ, Chúa Giêsu quả thực hoàn toàn không chủ ý gây ra chia rẽ giữa con người với nhau, nhưng giáo huấn của Người và tinh thần của Người tự bản chất vượt lên trên tất cả những gì là tự nhiên, nếu không muốn nói là những gì phản tự nhiên theo cảm nhận chủ quan nơi nhiều người: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy", khiến họ không thể nào chấp nhận được bất cứ ai, thậm chí là thành phần thân nhân ruột thịt của họ: "thù địch của người ta lại là chính người nhà mình", muốn sống theo giáo huấn và tinh thần ngược đời của Người: "Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó". Đó không phải là một sự sống gươm giáo hay sao?
Sau nữa về "bát nước". Bởi thế, trước những con người sống theo giáo huấn và tinh thần của Chúa Kitô có vẻ lập dị điên khùng như vậy mà vẫn tiếp nhận họ thì phải kể là những ai tiếp nhận họ phải có một đức tin mãnh liệt, bởi những người tiếp nhận này đã nhận ra Người nơi thành phần thừa sai của Người: "Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy", và chính vì thế họ đáng được tưởng thưởng xứng đáng, cho dù so với công sức của thành phần thừa sai được họ tiếp nhận thì việc họ tiếp nhận ấy chẳng đáng là bao, chẳng khác gì như một "bát nước lã" vậy thôi: "Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu". Tại sao? Bởi vì: "Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính".
"Sự sống gươm giáo" theo chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay cũng được thể hiện nơi bài đọc một cùng ngày, một bài đọc được trích từ Sách Xuất Hành cho thấy dân Do Thái, sau một thời gian dài hơn 400 năm sinh sống bên Ai Cập từ ngày Giuse làm tể tướng ở đất nước này đã cứu cả dân Ai Cập lẫn các dân trong vùng, bao gồm cả đại gia đình tổ phụ Giacóp khỏi nạn đói kém, đã bắt đầu trải qua một cuộc thử thách đầy gian nan khốn khổ để ngăn đà phát triển về dân số của họ, như bài đọc 1 thuật lại:
"Trong những ngày ấy, nhà vua mới lên ngôi cai trị nước Ai-cập, ông không biết Giuse, nên ... vua truyền lệnh cho các trưởng dịch bắt họ làm việc cực nhọc hơn, bắt họ xây những thành Phithom và Ramsê làm kho tàng cho Pharaon. Nhưng người ta càng đàn áp họ, thì họ lại càng sinh sản và bành trướng nhiều hơn. Các người Ai-cập càng ghen ghét con cái Israel và càng bắt họ làm việc khổ cực hơn. Người ta làm cho đời sống họ thêm cay cực, bắt họ làm những việc nặng nhọc, nhồi đất, đúc gạch và làm mọi công việc đồng áng. Bấy giờ vua Pharaon truyền lệnh cho toàn dân của vua rằng: 'Bất cứ con trai (Do-thái) nào mới sinh, thì hãy ném nó xuống sông, chỉ để lại những trẻ gái mà thôi'".
Thế nhưng, như biến cố Giuse bị các anh cùng thân phụ Giacóp thù ghét âm mưu sát hại đã được Thiên Chúa là Đấng quan phòng thần linh biến thành sự lành cho dân tộc được Ngài tuyển chọn thế nào, trong biến cố dân Do Thái ở Ai Cập bị cả vua lẫn dân Ai Cập cố ý tìm cách đầy đọa họ cũng không ngoài ý Đấng đã hứa với Tổ Phụ Giacóp (trong bài đọc 1 Thứ Sáu tuần trước) trước khi đại gia đình của vị tổ phụ này sang Ai Cập lánh nạn đói:
"Ta là Thiên Chúa rất hùng mạnh của cha ngươi, nên ngươi đừng sợ, hãy xuống xứ Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ xuống đó với ngươi. Cũng chính Ta sẽ đưa ngươi trở về, (sau khi) tay Giuse đã vuốt mắt cho ngươi" (Khởi Nguyên 46:3-4).
Việc đại gia đình của tổ phụ Giacóp di dân sang Ai Cập và sống ở Ai Cập là vì niềm tin, tin vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, vị Thiên Chúa luôn thủy chung, không bao giờ bỏ rơi họ, nhất là khi xẩy ra những biến cố khiến họ phải khốn cùng và kêu lên cùng Đấng duy nhất có thể cứu họ, Đấng duy nhất họ tin tưởng, cũng là Đấng muốn sử dụng hay lợi dụng chính những lúc con người cùng khổ bất lực để tỏ mình ra cho họ làm họ càng tin vào Ngài hơn nữa, như tâm tình đầy xác tín của bài Đáp Ca hôm nay:
1) Nếu như Chúa không che chở chúng tôi - Israel hãy xướng lên - nếu như Chúa không che chở chúng tôi, khi thiên hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người ta đã nuốt sống chúng tôi rồi, khi họ bầng bầng giận dữ chúng tôi.
2) Bấy giờ nước cả đã lôi cuốn mất, trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi; bấy giờ sóng cả kiêu hùng đã ngập lút chúng tôi! Chúc tụng Chúa vì Người đã không để chúng tôi nên mồi trao đưa vào răng chúng.
3) Hồn chúng tôi như cánh chim non thoát khỏi lưới dò của người gài bẫy bắt chim. Lưới dò đã đứt gãy, và chúng tôi đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Đấng tạo thành trời đất!
Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL
Bài Đọc I: (Năm I) Xh 1, 8-14. 22
Đáp Ca: Tv 123, 1-3. 4-6. 7-8
Phúc Âm: Mt 10, 34 - 11, 1
Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XV Thường Niên là bài phúc âm tiếp theo loạt bài phúc âm của Thánh ký Mathêu về huấn từ sai đi của Chúa Giêsu với 12 tông đồ. Bài phúc âm hôm nay là phần cuối cùng của bài huấn từ sai đí ấy, một phần huấn từ bao gồm 2 điểm chính yếu liên quan đến "gươm giáo" và "bát nước".
"Gươm giáo": "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó".
"Bát nước": "Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".
Trước hết về "gươm giáo". Nếu chúng ta chỉ lấy nguyên câu Chúa Giêsu nói ở ngay đầu bài phúc âm hôm nay: "Thầy không đến để đem hòa bình, nhưng đem gươm giáo", thì chắc chắn Người là tên phản kitô, vì giáo huấn của Người chất chứa những gì là phản nhân bản, chia rẻ, vô luân thường đạo lý. Thế nhưng, căn cứ vào ý tưởng của toàn đoạn văn, Người quả là chí lý khi khẳng định một câu nói lạ lùng hầu như lạc giáo như thế. Và nhất là căn cứ vào ý nghĩa Thánh Kinh của "gươm giáo" là chính Lời Chúa "sắc hơn gươm hai lưỡi" (xem Do Thái 4:12).
Ở chỗ, Chúa Giêsu quả thực hoàn toàn không chủ ý gây ra chia rẽ giữa con người với nhau, nhưng giáo huấn của Người và tinh thần của Người tự bản chất vượt lên trên tất cả những gì là tự nhiên, nếu không muốn nói là những gì phản tự nhiên theo cảm nhận chủ quan nơi nhiều người: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy", khiến họ không thể nào chấp nhận được bất cứ ai, thậm chí là thành phần thân nhân ruột thịt của họ: "thù địch của người ta lại là chính người nhà mình", muốn sống theo giáo huấn và tinh thần ngược đời của Người: "Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó". Đó không phải là một sự sống gươm giáo hay sao?
Sau nữa về "bát nước". Bởi thế, trước những con người sống theo giáo huấn và tinh thần của Chúa Kitô có vẻ lập dị điên khùng như vậy mà vẫn tiếp nhận họ thì phải kể là những ai tiếp nhận họ phải có một đức tin mãnh liệt, bởi những người tiếp nhận này đã nhận ra Người nơi thành phần thừa sai của Người: "Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy", và chính vì thế họ đáng được tưởng thưởng xứng đáng, cho dù so với công sức của thành phần thừa sai được họ tiếp nhận thì việc họ tiếp nhận ấy chẳng đáng là bao, chẳng khác gì như một "bát nước lã" vậy thôi: "Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu". Tại sao? Bởi vì: "Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính".
"Sự sống gươm giáo" theo chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay cũng được thể hiện nơi bài đọc một cùng ngày, một bài đọc được trích từ Sách Xuất Hành cho thấy dân Do Thái, sau một thời gian dài hơn 400 năm sinh sống bên Ai Cập từ ngày Giuse làm tể tướng ở đất nước này đã cứu cả dân Ai Cập lẫn các dân trong vùng, bao gồm cả đại gia đình tổ phụ Giacóp khỏi nạn đói kém, đã bắt đầu trải qua một cuộc thử thách đầy gian nan khốn khổ để ngăn đà phát triển về dân số của họ, như bài đọc 1 thuật lại:
"Trong những ngày ấy, nhà vua mới lên ngôi cai trị nước Ai-cập, ông không biết Giuse, nên ... vua truyền lệnh cho các trưởng dịch bắt họ làm việc cực nhọc hơn, bắt họ xây những thành Phithom và Ramsê làm kho tàng cho Pharaon. Nhưng người ta càng đàn áp họ, thì họ lại càng sinh sản và bành trướng nhiều hơn. Các người Ai-cập càng ghen ghét con cái Israel và càng bắt họ làm việc khổ cực hơn. Người ta làm cho đời sống họ thêm cay cực, bắt họ làm những việc nặng nhọc, nhồi đất, đúc gạch và làm mọi công việc đồng áng. Bấy giờ vua Pharaon truyền lệnh cho toàn dân của vua rằng: 'Bất cứ con trai (Do-thái) nào mới sinh, thì hãy ném nó xuống sông, chỉ để lại những trẻ gái mà thôi'".
Thế nhưng, như biến cố Giuse bị các anh cùng thân phụ Giacóp thù ghét âm mưu sát hại đã được Thiên Chúa là Đấng quan phòng thần linh biến thành sự lành cho dân tộc được Ngài tuyển chọn thế nào, trong biến cố dân Do Thái ở Ai Cập bị cả vua lẫn dân Ai Cập cố ý tìm cách đầy đọa họ cũng không ngoài ý Đấng đã hứa với Tổ Phụ Giacóp (trong bài đọc 1 Thứ Sáu tuần trước) trước khi đại gia đình của vị tổ phụ này sang Ai Cập lánh nạn đói:
"Ta là Thiên Chúa rất hùng mạnh của cha ngươi, nên ngươi đừng sợ, hãy xuống xứ Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ xuống đó với ngươi. Cũng chính Ta sẽ đưa ngươi trở về, (sau khi) tay Giuse đã vuốt mắt cho ngươi" (Khởi Nguyên 46:3-4).
Việc đại gia đình của tổ phụ Giacóp di dân sang Ai Cập và sống ở Ai Cập là vì niềm tin, tin vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, vị Thiên Chúa luôn thủy chung, không bao giờ bỏ rơi họ, nhất là khi xẩy ra những biến cố khiến họ phải khốn cùng và kêu lên cùng Đấng duy nhất có thể cứu họ, Đấng duy nhất họ tin tưởng, cũng là Đấng muốn sử dụng hay lợi dụng chính những lúc con người cùng khổ bất lực để tỏ mình ra cho họ làm họ càng tin vào Ngài hơn nữa, như tâm tình đầy xác tín của bài Đáp Ca hôm nay:
1) Nếu như Chúa không che chở chúng tôi - Israel hãy xướng lên - nếu như Chúa không che chở chúng tôi, khi thiên hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người ta đã nuốt sống chúng tôi rồi, khi họ bầng bầng giận dữ chúng tôi.
2) Bấy giờ nước cả đã lôi cuốn mất, trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi; bấy giờ sóng cả kiêu hùng đã ngập lút chúng tôi! Chúc tụng Chúa vì Người đã không để chúng tôi nên mồi trao đưa vào răng chúng.
3) Hồn chúng tôi như cánh chim non thoát khỏi lưới dò của người gài bẫy bắt chim. Lưới dò đã đứt gãy, và chúng tôi đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Đấng tạo thành trời đất!
Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL