Bạch Quả: Trường sinh dược thảo
Cách đây 3 năm, tôi đến Pensylvania vào mùa thu trước lễ Tạ Ơn. Trời bắt đầu lạnh gần độ đông đá. Một buổi sáng xuống phố, ánh mặt trời chói chang trên những lùm cây . Cây cối trơ trụi ngoại trừ một số cây mầu vàng dọc theo đường với những chùm lá hình rẻ quạt, tôi nhận ra ngay đó là cây bạch quả. Mùa xuân lá cây bạch quả mơn mởn từng chùm trổ ra trên từng đốt dọc theo cành cây vươn ra tứ phía. Mùa hè lá biến thành xanh đậm. Mùa thu lá đổi mầu vàng trông rất đẹp.
Ngồi trong quán ăn điểm tâm nhìn ra phía trước, tôi thấy mấy người vừa đàn ông đàn bà đang lượm những trái bạch quả rụng quanh gốc cây. Tôi hỏi cô bé cháu thì được biết các ông bà này trong mùa thu, khi thấy trái bạch quả rụng, họ cố lượm thật nhiều, nấu chè rồi đưa vào sở làm quà cho bạn bè mổi người một ly. Các ông bà trong sở lấy làm thú vị lắm : chè ăn vừa ngon, vừa bổ lại có mùi thơm vị bùi.
Mùa thu đã mang lại cho những người Trung Hoa này một cái mong đợi đầy lý thú. Với họ chỉ là lượm trái cây, nấu chè, không hơn không kém.
Hai hôm sau chúng tôi đi lượm lá chứ không lượm trái. Ở New Jersey tương đối dễ vơ lá hơn. Chúng tôi chỉ cần tới một cây vào buổi sớm, sau một đêm lạnh lá rụng chồng đống tại gốc cây, bốc mấy phút là được mấy bịch rác. Chúng tôi mang về nhà sọan lấy những lá tốt, còn những lá úa loại đi. Sau đó cho vào máy sấy cứ 24 tiếng lại được một mẻ, hai cậu cháu lượm có thể đủ làm trà uống cả năm. Chúng tôi trộn 2/3 lá bạch quả và 1/3 trà để giữ cho lá khỏi bị ẩm ướt , vả lại cũng cần uống trà có lợi cho cơ thể rất nhiều.
Câu hỏi được mọi người đặt ra là cây bạch quả là gì? Người Trung Hoa gọi cây bạch quả vì sau khi trái rụng, mầu của nó hơi vàng nâu giống như trái mơ, khi rửa sạch vỏ chỉ còn có hạt, lúc phơi khô hạt trắng, vì thế mà người ta còn dịch ra tiếng anh là white nut. Cây bạch quả cũng được người tây phương gọi là Ginkgo Biloba, hay người Hoa Kỳ gọi là maidenhair, cây tóc tiên nữ.
Bạch quả xuất hiện đã lâu trên trái đất vào thời khổng long mà người ta đã tìm thấy ở các địa tầng trái đất trên các đại lục đông và tây bán cầu. Ở Á châu, người ta thấy cây bạch quả được cấy trong khuôn viên các chùa ở Trung Hoa và Nhật Bản. Bạch quả là loại cây có lâu nhất trong các cây trên trái đất. Bạch quả cũng có một sức sống dẻo giai. Năm 1945 sau cuộc thả bom nguyên tử ở Hiroshima, người ta thấy tất cả những cây khác bi tiêu diệt, những cây bạch quả vẫn sống ngạo nghễ giữa gió bụi phong trần.
Vào thế kỷ 18, người âu châu chú trọng tới cây bạch quả vì hình thù và sắc đẹp của nó. Ông Englebert Kaempfer, một y sỹ và là nhà thực vật học người Đức, lần đầu tiên trong cuộc đời ông được trông thấy cây bạch
(cây bạch quả này được chụp tại La Bambouseraie nursery, Pháp)
quả trong chuyến công du Nhật Bản. Sau đó ông Carolus Linnaeus, người Thụy Điển, cũng là một nhà thực vật học trong việc xếp loại và hệ thống hóa các loại động vật và thực vật, đã đặt tên Ginkgo Biloba cho cây bạch quả. Năm 1727 người ta mang cây bạch quả từ Trung Hoa tới Âu Châu và cấy tại vườn dành cho những cây ở vùng nhiệt đới. Tại Hoa Kỳ, năm 1784 ông Hamilton là người đầu tiên cấy cây bạch quả tại sân nhà ông ở Philadelphia. Bây giờ cây ấy hãy còn sống và ở ngay cạnh nghĩa trang Woodlawn. Rồi cứ thế, người này bảo người kia, kể cả rất nhiều thành phố lập dự án trồng cây hai bên đường phố để tăng vẻ đẹp cho đô thị. Hiện nay ở Philadelphia, nếu ai muốn trồng cây bạch quả, chỉ cần liên lạc với sở thiết kế đô thị để được mua một cây bạch quả 15 gallon với giá $ 75.00 thay vì giá thị trường là $ 150.00. Ở Hoa Kỳ hiện nay cũng có nhiều nông trại cấy loại cây này, chẳng hạn như ở S. Caroline để sản xuất và cung cấp lá cho những nhà bào chế các sản phẩm bạch quả.
Cây bạch quả sống lâu hơn các loại cây khác. Cây có thể sống nhiều ngàn năm. Cây cũng có cây đực cây cái. Cây đực cung cấp nhụy, cây cái sinh quả. Cây bạch quả phải kể tới 50 năm sau khi trồng mới có trái, vì vậy, nếu đời ông trồng cây thì đời cháu mới được ăn trái. Trái bạch quả khi chín, sẽ đổi mầu vàng ố và rớt xuống đất có mùi hôi, vì thế nhiều nơi khi thấy cây sinh trái, người ta thường chặt cây, chỉ để lại cây đực.
Trần Khánh Liễm
Cách đây 3 năm, tôi đến Pensylvania vào mùa thu trước lễ Tạ Ơn. Trời bắt đầu lạnh gần độ đông đá. Một buổi sáng xuống phố, ánh mặt trời chói chang trên những lùm cây . Cây cối trơ trụi ngoại trừ một số cây mầu vàng dọc theo đường với những chùm lá hình rẻ quạt, tôi nhận ra ngay đó là cây bạch quả. Mùa xuân lá cây bạch quả mơn mởn từng chùm trổ ra trên từng đốt dọc theo cành cây vươn ra tứ phía. Mùa hè lá biến thành xanh đậm. Mùa thu lá đổi mầu vàng trông rất đẹp.
Ngồi trong quán ăn điểm tâm nhìn ra phía trước, tôi thấy mấy người vừa đàn ông đàn bà đang lượm những trái bạch quả rụng quanh gốc cây. Tôi hỏi cô bé cháu thì được biết các ông bà này trong mùa thu, khi thấy trái bạch quả rụng, họ cố lượm thật nhiều, nấu chè rồi đưa vào sở làm quà cho bạn bè mổi người một ly. Các ông bà trong sở lấy làm thú vị lắm : chè ăn vừa ngon, vừa bổ lại có mùi thơm vị bùi.
Mùa thu đã mang lại cho những người Trung Hoa này một cái mong đợi đầy lý thú. Với họ chỉ là lượm trái cây, nấu chè, không hơn không kém.
Hai hôm sau chúng tôi đi lượm lá chứ không lượm trái. Ở New Jersey tương đối dễ vơ lá hơn. Chúng tôi chỉ cần tới một cây vào buổi sớm, sau một đêm lạnh lá rụng chồng đống tại gốc cây, bốc mấy phút là được mấy bịch rác. Chúng tôi mang về nhà sọan lấy những lá tốt, còn những lá úa loại đi. Sau đó cho vào máy sấy cứ 24 tiếng lại được một mẻ, hai cậu cháu lượm có thể đủ làm trà uống cả năm. Chúng tôi trộn 2/3 lá bạch quả và 1/3 trà để giữ cho lá khỏi bị ẩm ướt , vả lại cũng cần uống trà có lợi cho cơ thể rất nhiều.
Câu hỏi được mọi người đặt ra là cây bạch quả là gì? Người Trung Hoa gọi cây bạch quả vì sau khi trái rụng, mầu của nó hơi vàng nâu giống như trái mơ, khi rửa sạch vỏ chỉ còn có hạt, lúc phơi khô hạt trắng, vì thế mà người ta còn dịch ra tiếng anh là white nut. Cây bạch quả cũng được người tây phương gọi là Ginkgo Biloba, hay người Hoa Kỳ gọi là maidenhair, cây tóc tiên nữ.
Bạch quả xuất hiện đã lâu trên trái đất vào thời khổng long mà người ta đã tìm thấy ở các địa tầng trái đất trên các đại lục đông và tây bán cầu. Ở Á châu, người ta thấy cây bạch quả được cấy trong khuôn viên các chùa ở Trung Hoa và Nhật Bản. Bạch quả là loại cây có lâu nhất trong các cây trên trái đất. Bạch quả cũng có một sức sống dẻo giai. Năm 1945 sau cuộc thả bom nguyên tử ở Hiroshima, người ta thấy tất cả những cây khác bi tiêu diệt, những cây bạch quả vẫn sống ngạo nghễ giữa gió bụi phong trần.
Vào thế kỷ 18, người âu châu chú trọng tới cây bạch quả vì hình thù và sắc đẹp của nó. Ông Englebert Kaempfer, một y sỹ và là nhà thực vật học người Đức, lần đầu tiên trong cuộc đời ông được trông thấy cây bạch
(cây bạch quả này được chụp tại La Bambouseraie nursery, Pháp)
quả trong chuyến công du Nhật Bản. Sau đó ông Carolus Linnaeus, người Thụy Điển, cũng là một nhà thực vật học trong việc xếp loại và hệ thống hóa các loại động vật và thực vật, đã đặt tên Ginkgo Biloba cho cây bạch quả. Năm 1727 người ta mang cây bạch quả từ Trung Hoa tới Âu Châu và cấy tại vườn dành cho những cây ở vùng nhiệt đới. Tại Hoa Kỳ, năm 1784 ông Hamilton là người đầu tiên cấy cây bạch quả tại sân nhà ông ở Philadelphia. Bây giờ cây ấy hãy còn sống và ở ngay cạnh nghĩa trang Woodlawn. Rồi cứ thế, người này bảo người kia, kể cả rất nhiều thành phố lập dự án trồng cây hai bên đường phố để tăng vẻ đẹp cho đô thị. Hiện nay ở Philadelphia, nếu ai muốn trồng cây bạch quả, chỉ cần liên lạc với sở thiết kế đô thị để được mua một cây bạch quả 15 gallon với giá $ 75.00 thay vì giá thị trường là $ 150.00. Ở Hoa Kỳ hiện nay cũng có nhiều nông trại cấy loại cây này, chẳng hạn như ở S. Caroline để sản xuất và cung cấp lá cho những nhà bào chế các sản phẩm bạch quả.
Cây bạch quả sống lâu hơn các loại cây khác. Cây có thể sống nhiều ngàn năm. Cây cũng có cây đực cây cái. Cây đực cung cấp nhụy, cây cái sinh quả. Cây bạch quả phải kể tới 50 năm sau khi trồng mới có trái, vì vậy, nếu đời ông trồng cây thì đời cháu mới được ăn trái. Trái bạch quả khi chín, sẽ đổi mầu vàng ố và rớt xuống đất có mùi hôi, vì thế nhiều nơi khi thấy cây sinh trái, người ta thường chặt cây, chỉ để lại cây đực.
Trần Khánh Liễm