Monday, November 11, 20249:19 PM(View: 33)
Một phụ nữ kể cảm nghiệm: "Vợ chồng tôi vì bận rộn làm ăn nên đem các con gửi cho mẹ ruột tôi và dượng ghẻ của tôi trông coi. Một thời gian sau thì các con gái tôi kể rằng các cháu bị dượng ghẻ tôi sờ mó và làm bậy.
Monday, November 11, 20248:48 PM(View: 34)
Nguồn: Purgatory Có một nữ tu tên là Gertrude dù đạo đức nhưng chị không giữ gìn lời nói. Chị thường hay phạm luật giữ thinh lặng. Đôi khi trong nhà thờ, trong buổi cầu nguyện thì chị thường nói những lời nói vô bổ với người chị em.
Monday, November 11, 20248:38 PM(View: 31)
Nguồn: Purgatory 1. Một linh mục bị đền tội ở luyện ngục vì tật hay nói những điều không cần thiết. Ngài là một người giảng thuyết rất hay và tận tâm. Ngài luôn vinh danh Chúa. Sau khi chết thì ngài hiện về với một người bạn trong Dòng tại Cologne.
Saturday, November 9, 20246:55 PM(View: 76)
Nguồn: Purgatory Tội lắm lời miệng lưỡi là một tội mà ai cũng dễ dàng mắc phải.
Saturday, November 9, 20245:38 AM(View: 69)
Nguồn: Purgatory Sau đây là cảm nghiệm của cha Francis, Dòng Tên: "Những người Kito Hữu nếu muốn tránh khỏi lửa luyện tội thì cần phải tôn sùng Cuộc Khổ Nạn Chúa Kito, Chúa chúng ta."
Saturday, November 9, 20244:54 AM(View: 52)
Các tu sỹ dòng Tên sống sót sau vụ ném bom nguyên tử nhờ lần hạt Mân Côi. Đã 70 năm trôi qua, kể từ khi lần đầu tiên và duy nhất, vũ khí hạt nhân nổ ở Hiroshima ngày 06-8, và Nagasaki ngày 09-8-1945. Cuộc tấn công nguyên tử lên thành phố Hiroshima đã giết hại khoảng 80 ngàn người ngay lập tức, ngoài ra cũng chịu trách nhiệm cho khoảng 130 ngàn cái chết khác,
Thursday, November 7, 20249:20 PM(View: 51)
Nguồn: Purgatory Một Hoàng Hậu của nước Hung Gia Lợi là Bà Gertrude qua đời năm 1220. Sau đó bà hiện về xin con của bà là Thánh Elizabeth cầu nguyện cho bà.
Thursday, November 7, 20248:55 PM(View: 61)
Nguồn: Purgatory Trong thời đại này có rất nhiều Kito hữu sống xa rời Thánh Giá và Cuộc Khổ Nạn Đau Thương của Chúa Kito. Họ hưởng thụ và sống theo dục tình lôi cuốn. Họ rất sợ những gì gọi là sự hy sinh. Họ không ăn chay mà cũng không biết hãm mình đền tội...
Thursday, November 7, 20248:30 PM(View: 63)
Cha Gabriel Amorth - một chuyên gia trừ quỷ nổi tiếng của Rôma, đã xác nhận rằng: "Kẻ thù lớn nhất của ma quỷ hay của một thứ tà ma, phù phép vô hình nào đó, chính là Đức Trinh Nữ Maria. Cha giải thích: "Trong một trường hợp kia, một chuyên gia trừ quỷ là bạn của tôi đã từng hỏi quỷ, đối với Đức Maria,
Thursday, November 7, 20248:26 PM(View: 55)
Câu chuyện xảy ra giữa hai anh em sống tại Luân Đôn, thủ đô Anh quốc. Người anh tên Yerzy, người em tên Pawel; cả hai đã lập gia đình có con cái và địa vị trong xã hội; cả hai là tín hữu Công Giáo thuộc gia đình đạo đức.

LỜI CHÚA: LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY THỨ SÁU TUẦN V THƯỜNG NIÊN SỐNG LỜI CHÚA Bài đọc : Bài đọc 1 : Is 65,17-21

Saturday, February 13, 20211:05 AM(View: 888)

12-1sLỜI CHÚA: LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY

THỨ SÁU TUẦN V THƯỜNG NIÊN

SỐNG LỜI CHÚA

Bài đọc :

Bài đọc 1 : Is 65,17-21

Này Ta sáng tạo trời mới đất mới.

Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.

17 Đức Chúa phán như sau :

“Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,
không còn ai nhớ đến thuở ban đầu
và nhắc lại trong tâm trí nữa.
18Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan
vì những gì chính Ta sáng tạo.
Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ
và dân ở đó thành nỗi vui mừng.
19Vì Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng.
Nơi đây, sẽ không còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la.
20Nơi đây, sẽ không còn trẻ sơ sinh chết yểu
và người già tuổi thọ không tròn ;
vì trăm tuổi mà chết là chết trẻ,
và chưa tròn trăm tuổi mà chết là bị nguyền rủa.
21Người ta sẽ xây nhà và được ở,
sẽ trồng nho và được ăn trái.”

Đáp ca : Tv 29,2.5-6.11-12.13 (Đ. c.2a)

Đ. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt.

2Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt,
không để quân thù đắc chí nhạo cười con.

Đ. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt.

5Hỡi những kẻ tín trung,
hãy đàn ca mừng Chúa,
cảm tạ thánh danh Người.
6Người nổi giận, giận trong giây lát,
nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.
Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống,
hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.

Đ. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt.

11Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con,
lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ.
12Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu,
cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng.

Đ. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt.

13Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa,
và không hề nín lặng.
Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ,
xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu.

Đ. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt.

Bài đọc 2 : Kh 21,1-6

Tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất.

Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.

1 Tôi là Gio-an, tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. 2 Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. 3 Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to : “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. 4 Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết ; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.”

5 Đấng ngự trên ngai phán : “Này đây Ta đổi mới mọi sự.” Người lại phán : “Ngươi hãy viết : Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật.” 6 Người còn phán với tôi : “Xong cả rồi ! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh, mà không phải trả tiền.

Tung hô Tin Mừng : 1 Ga 2,5

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Ai giữ lời Đức Ki-tô dạy, thì nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng : Mt 5,43-48

Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

43 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đã nghe Luật dạy rằng : Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. 44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em : hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. 45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. 46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ? 47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu ? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ? 48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.

SUY NIỆM-PHÓ THÁC

Ngày nọ, hai tu sĩ hành khất tay không trở về sau khi tặng cho người ăn xin ổ bánh duy nhất mà họ đã vất vả cả ngày mới xin được. Về đến nhà, họ liền thuật lại mọi việc cho thánh Đa Minh. Cha thánh ra hiệu cộng đoàn đến nhà ăn như thường lệ. Khi đến nơi, mọi người nhận thấy chẳng có gì để dùng, liền xôn xao bàn tán. Cha thánh trấn an anh em rằng: Thiên Chúa sẽ liệu cả. Ngài chắp tay cầu nguyện. Tức thì có hai thanh niên mặc áo trắng tiến vào phân phát bánh cho cả tu viện.

Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta biết điều cấp thiết nhất của đời người là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, chứ không phải tìm những sự thuộc về thế gian như của cải vật chất, danh vọng... Bởi lẽ, khi nhắm mắt xuôi tay, những gì theo chúng ta đến với Chúa là những sự thuộc về Người chứ không phải những sự thuộc trần gian này.

(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)

LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY

Lạy Chúa, con xin tín thác mọi sự trong tay Chúa, xin dạy con tìm kiếm và thi hành những điều đẹp ý Ngài. Amen.

TU ĐỨC SỐNG ĐẠO

HÀNH TRÌNH TÂM LINH NHƯ ĐI TÌM TRÂU
Có lẽ khi bàn về đời sống tâm linh, không ai nghĩ đến con trâu. Con trâu là con vật dùng để đi cày ruộng, chứ không phải để “thăng thiên”. Tuy vậy, truyền thống của Thiền tông đã mô tả hành trình tâm linh như là cuộc “tìm trâu” qua những bức tranh nổi tiếng được thiền sư Suzuki phổ biến sang Tây phương. Những bức tranh này có thể được giải thích theo chiều hướng tâm-không hoặc theo chiều hướng Kitô-giáo[1]. Đây là điều mà chúng tôi muốn trình bày khi so sánh những chặng đường của thiền đạo với hành trình huyền bí Kitô giáo.

I. Truyền thống thiền đạo

Có ba lưu truyền về các bức tranh tìm trâu được đặt tên là: 1/ “trâu tiệm hóa” của Fumyo (Phổ Minh, thế kỷ XI). 2/ “Mười hình con trâu” của Kakuan (Hán: Quách Am, thế kỷ XII). 3/ “Con trâu trắng” gán cho Kyotetsu, người đã đề bài thơ bên cạnh bức tranh (thế kỷ XVII). Chúng ta hãy tìm hiểu nội dung của các bức tranh, rồi sau đó so sánh với Kitô giáo. Mỗi tác giả trình bày một quan điểm khác nhau về tiến trình.

A. “Trâu tiệm hóa” của Fumyo (Phổ Minh)

Ông muốn trình bày sự tiến triển của linh hồn trải qua 10 chặng. Lúc đầu con trâu màu đen, dần dần biến thành trắng, và sau cùng biến mất. Khi mới bắt đầu, thì cái tâm còn vương mắc nhiều tính xấu, dơ nhớp bẩn thỉu như con trâu đen, nhưng từ chặng thứ 8 thì trở nên trắng, để đạt đến sự hoàn hảo khi hoà đồng với cái Ngã tuyệt đối.

1) Con trâu sổng, thoát chạy vào rừng. Một đám mây đen phủ trên rặng núi, và có nguy cơ hủy hoại cả cánh đồng.

2) Mục đồng đi bắt trâu về, cột dây vào mũi, dùng roi quất mỗi khi nó cưỡng lại không chịu về nhà. Mục đồng phải dùng sức lực để trị con trâu cứng đầu.

3) Dần dần con trâu trở nên thuần thục (đầu nó đổi thành trắng), không chạy lăng xăng nữa. Nó để cho mục đồng dắt đi qua suối qua đồi. Tuy vậy, mục đồng không thả dây trói con trâu.

4) Sau nhiều cuộc huấn luyện, con trâu bắt đầu quay đầu hướng về mục đồng. Tính hung hăng của nó đã giảm bớt. Nhưng mục đồng vẫn chưa tin tưởng nó. Anh ta buộc dây vào một thân cây.

5) Dưới bóng cây liễu bên cạnh dòng nước, con trâu thong dong đi đi lại lại. Đến khi ngả bóng chiều, mục đồng về nhà, con trâu cũng đi theo anh ta, không còn bị cưỡng bách nữa.

6) Từ đây, con trâu hoàn toàn biến đổi màu (từ đen sang trắng). Con trâu nằm nghỉ trên bãi cỏ, không còn bị trói buộc nữa. Mục đồng ngồi dưới cây thông, sung sướng đem cây sáo ra thổi.

7) Mặt trời xuống thấp gần mặt nước. Mục đồng đánh một giấc trên bãi cỏ. Con trâu được ăn cỏ và uống nước thoả thuê.

8) Con trâu trắng đứng trước đám mây trắng. Mục đồng cảm thấy an tĩnh thoải mái. Mặt trăng đã nhô lên sau đám mây trắng, toả bóng trắng lên đám mây. Thế rồi trăng lìa đám mây, đi về hướng tây, mây bay về hướng đông, mỗi bên đi về hướng của mình.

9) Con trâu biến mất. Mục đồng thấy thong dong. Dưới ánh trăng, anh ta vỗ tay ca hát.

10) Cả con trâu lẫn mục đồng đều biến mất, không để lại dấu vết tích gì nữa. Ánh trăng chiếu toả trên không trung.

B. Mười bức tranh của Kakuan (Quách Am)

Khác với Fumyo chú trọng đến tình trạng nhơ nhớp của tâm hồn và cần được thanh luyện (từ đen sang trắng), ông Kakuan (Quách Am) không quan tâm đến màu sắc của con trâu (luôn luôn trắng) cho bằng việc đi tìm con trâu. Con trâu tượng trưng cho Phật tính mà ta phải đi tìm. Nhưng đồng thời, không dễ gì mà bắt được trâu bởi vì nó ương ngạnh lắm.

Mười bức tranh mang tựa đề như sau: tìm trâu – thấy dấu – thấy trâu – được trâu – chăn trâu – cỡi trâu về nhà – quên trâu còn người – người trâu đều quên – trở về nguồn cội – thõng tay vào chợ. Sau khi mô tả bức tranh, tác giả thêm lời chú dẫn.

1) Tìm trâu

– Chú mục đồng lạc lõng chốn rừng sâu, đi tìm trâu lạc nhưng không biết quay sang hướng nào. Trước mặt thì thấy sông sâu, không thể lội qua. Hắn nghe tiếng ve sầu, báo hiệu chiều tà.

– Thực ra, con trâu đâu có mất, chỉ có ta không biết nó ở đâu mà thôi: ta đi tìm nó không đúng chỗ. Chính ta mới thực là kẻ lạc lối, bởi vì bị dục vọng lôi cuốn. Ta càng đi thì càng cách xa nhà, và càng đi lạc.

2) Vết chân trâu

– Dọc theo bờ sông, mục đồng thấy vết chân trâu. Cánh rừng trở thành rậm rạp hơn. Liệu có tìm thấy lối ra không?

– Nhờ kinh điển, con người tìm thấy dấu vết con trâu. Hắn nghiệm thấy rằng tất cả các bình vàng trên mặt đất này chỉ khác nhau về hình mà thôi; tất cả mọi sinh linh đều tận cùng nơi một hữu thể là Ngã. Tuy nhiên hắn chưa biết phân biệt đâu là thực đâu là giả. Hắn mới nhận ra các dấu vết mà thôi.

3) Tìm thấy trâu

– Một con chim đang hát trên cành cây. Một làn gió thổi, mang lại mát mẻ dưới ánh nắng mặt trời. Kìa, con trâu, một thân một mình, không ẩn núp.

– Từ dấu hiệu ta phải đi sâu vào thực tại, cũng tựa như nhờ tiếng trâu rống mà ta tìm thấy con trâu. Tất cả các giác quan đều hoà hợp với nhau. Sự hoà hợp này toả lan ra qua hành động và mọi người đều nhận thấy.

4) Bắt trâu

– Mục đồng gắng hết sức mình để bắt con trâu. Nhưng nó vừa bướng bỉnh lại vừa khỏe mạnh. Đôi khi nó chạy lên núi cao hơn, vượt quá khỏi đám mây, hoặc khuất dạng sau đám sương mù che phủ hố thẳm.

– Sau một thời gian xa cách, mục đồng gặp lại con trâu của mình, nhưng khó bắt nó lại được bởi vì trâu thích sống ngoài đồng cỏ xanh, và bản tính của nó còn ương ngạnh. Muốn trị được trâu thì phải dùng roi.

5) Dẫn trâu

– Với sợi dây và cây roi, mục đồng dắt con trâu về nhà, không để cho nó đi lang thang và bị nhơ nhớp. Nếu biết dạy nó, nó sẽ trở nên thuần thục.

– Khi một tư tưởng đã nổi lên thì tư tưởng khác liên tiếp nổi lên. Nếu được soi sáng, thì tất cả những tư tưởng đó bộc lộ một chân lý duy nhất. Nhưng khi các tư tưởng còn trong tình trạng hỗn độn thì nó đưa ta đến lầm lẫn. Các sự vật chèn ép ta không do thế giới khách thể nhưng tại vì tinh thần của ta còn u mê. Muốn giữ con trâu lại, ta không nào rời bỏ sợi dây và cây roi, nghĩa là không thể nào dung dưỡng chiều chuộng các sở thích.

6) Cưỡi trâu

– Mục đồng cưỡi lên lưng trâu để về nhà, rút cây sáo ra thổi, lòng thì vui thoả, và miệng hát ca.

– Cuộc chiến đấu đã chấm dứt. Mục đồng không còn nhớ tới những thành công hay thất bại. Anh ta sung sướng nhìn lên bầu trời. Nếu ai gọi thì anh cũng chẳng ngoái cổ lại. Không gì thu hút được anh nữa.

7) Thả trâu

– Về tới nhà, mục đồng thả trâu ra. Không còn thấy con trâu trong bức tranh nữa, mà chỉ còn mục đồng ngủ say dưới mái tranh. Sợi dây và cây roi được để bên cạnh.

– Muôn vật chỉ là một, và con trâu chỉ là biểu tượng. Pháp chỉ một chứ không có nhiều. Con trâu chỉ là một phương tiện để giải thích Pháp. Một khi đã nắm bắt được Pháp rồi, thì phương tiện không cần thiết nữa và vì thế biến mất. Lưới và bẫy không cần nữa khi đã bắt được cá hay thú. Như trăng đã nhô lên khỏi đám mây và chiếu toả ánh sáng cho nhân gian, thì ánh quang-minh hỉ-lạc cũng lan ra khắp chốn.

8) Quên hết

– Bức tranh số tám chỉ có một vòng tròn trống trơn: không còn thấy mục đồng, con trâu, dây, roi, cây cối. Xem ra tất cả đều tan biến vào khoảng trời bao la. Một thiền sư đã nói: trên một bếp lửa, tìm đâu ra được một hạt tuyết?

– Tất cả mọi vật trên đời này đều hão huyền. Kể cả thánh nhân, phật tính cũng vậy. Vì thế đừng đi tìm Đức Phật nơi mà không có Phật. Đức Phật không có hình tượng gì hết. Các tượng Phật với hương đèn ở trước mặt chỉ là hình tượng giả dối.

9) Về nguồn

– Cần phải lên đường, quay về với nguồn mạch của mình: làm thế là sai rồi! Chẳng cần phải đi đâu hết. Hãy ngồi ở nhà, yên tĩnh, tâm bất động, không nghe không nhìn gì hết. Có thấy dòng nước chảy không? Chảy về đâu, ta không biết. Có thấy các bông hoa tươi thắm không? Đẹp cho ai, ta không biết.

– Trong cãnh thanh tịnh tuyệt đối, mục đồng nhìn ngắm vạn vật biến thiên, sinh tử. Người mục đồng đạt tới an tĩnh tuyệt đối, nên có thể nhìn thấy bản tính đích thực của muôn vật.

10) Ra chợ

– Mục đồng, mình cởi trần và đi chân không, đi ra chợ, tươi vui. Anh chẳng cần quyền lực thần thánh gì hết.

– Mục đồng đi vào thị thành, hoà lẫn với nhân thế, làm bạn với hết mọi người. Anh ta sống tự do cách lạ thường, với nếp sống bình dị. Anh gặp gỡ thiên hạ, kể cả hàng cá hàng rượu, để nhờ sự tiếp xúc với anh mà họ được cảm hoá.

C. Những bức tranh của ông Kyotetsu

Ông có một quan điểm khác với hai tác giả trên:

– Trái với Phổ Minh cho con trâu đổi màu từ đen đến trắng, ông Kyotetsu luôn vẽ con trâu trắng: con trâu không cần phải thanh luyện, nhưng cần phải đi tìm.

– Khác với Quách Am, con trâu đã xuất hiện ngay từ bức tranh thứ nhất: con trâu tượng trưng cho Phật tính, hiện diện khắp nơi. Ta cứ ngỡ rằng mất trâu; nhưng thực ra trâu chẳng có mất đâu, mà chỉ tại vì ta không thấy nó thôi. Ông Kyotetsu muốn cho thấy rằng trong bất cứ con người nào cũng có khuynh hướng muốn đi tìm chân lý; nhưng chân lý không ở chỗ nào xa xôi cả, chỉ cần biết tìm đúng chỗ thì sẽ gặp.

Sau đây là diễn tiến của mười bức tranh

1) Lạc trâu

– Con trâu trắng đứng đàng đông và trông về hướng đông. Mục đồng đứng đàng tây và trông về hướng tây.

– Trâu là trâu, mục đồng là mục đồng, hai bên cách xa nhau và quay lưng với nhau. Xem ra một khoảng cách vô tận đã tách lìa hai bên. Kỳ thực, cả hai gần nhau; chỉ vì mê muội mà ta không hiểu nổi.

2) Tìm trâu

– Ông chủ hỏi mục đồng: “con trâu đâu rồi?”. Mục đồng không biết trả lời ra sao. Có một người đến từ hướng đông và trỏ cho mục đồng.

– Người ta hỏi mục đồng: “con trâu đâu rồi?”. Mục đồng không biết. Một người khác biết dấu vết con trâu, và khi ông chỉ cho mục đồng, hắn liền chuyển hướng.

3) Dấu của trâu

– Mục đồng chạy về hướng đông và nhận thấy nhiều dấu vết trên đồng.

– Băng qua núi đồi và lần theo nhiều ngỏ khúc khuỷu, cậu bé tiến về hướng đông và thấy nhiều dấu vết. Bây giờ cậu ta biết mình đang tìm cái gì rồi: mình đi tìm cái mình đã biết và không còn do dự nữa.

4) Gặp trâu

– Con trâu trắng đang gặm cỏ trên cánh đồng, và mục đồng hớn hở vì thấy nó.

– Sau một chặng đường dài, mục đồng tìm thấy con trâu của mình đang gặm cỏ. Cậu thở phào nhẹ nhõm, vui vẻ tiến lại gần trâu.

4) Bắt trâu

– Con trâu từ từ chỗi dậy, và mục đồng vuốt ve nó.

– Cậu ta không còn những lo âu vất vả khi đi tìm bò. Cậu ta quá sướng khi gặp nó, và vồn vã vuốt ve nó.

5) Trông trâu

– Mục đồng ngồi nghỉ bên tảng đá, và con trâu đi uống nước.

– Con trâu thấy thoải mái; mục đồng cũng an tâm. Gió mát trăng thanh. Mục đồng quên cả đói. Hương hoa toả lan khắp đồi khiến cậu quên hết cả thời gian.

6) Dẫn trâu về

– Bóng chiều đã ngả trên núi. Con trâu trở về chuồng, cậu bé cưỡi trên lưng trâu và thổi sáo.

– Gió đưa cành liễu khiến cho bóng nó lung lay. Mục đồng thổi những bài ca trường cửu làm rung động tấm lòng. Thử hỏi: mấy khi gặp được cảnh thư thái như vậy?

7) Quên trâu

– Trăng chiếu xuống dương gian, và cậu bé vỗ tay ca hát.

– Con trâu trắng biến mất. Cậu bé sung sướng vì cảnh cô tịch trên núi. Những rặng núi in hình trên mặt nước, trăng lên cao dần và toả thêm ánh sáng.

8) Biến tan

– Cả con trâu lẫn chú mục đồng đều biến đi. Chỉ còn lại vòng tròn trống rỗng.

– Vũ trụ bao la hiện ra trong chớp mắt. Cõi Không tỏ lộ cảnh vô biên. Các thứ đạo lý thánh hiền đều biến tan hết. Ta cảm thấy tỉnh lên sau một giấc mơ triền miên.

9) Ra làng

– Cậu bé đi về hướng đông, và con trâu đi theo. Con trâu trắng đi theo cậu bé ra chốn đô hội. Cậu bé hớn hở chào thăm hết mọi người. Cậu thấy không có chi khác biệt giữa đi tìm Phật và đi tìm chúng sinh.

D. Nhận xét

Tuy cả ba loạt bức tranh đều xoay quanh hình ảnh con trâu, nhưng đàng sau biểu tượng này, mỗi tác giả muốn gửi một sứ điệp khác nhau.

1) Loạt bức tranh thứ nhất (Tiệm hoá của Phổ Minh) mô tả tiến trình biến đổi tương tự như các bậc thầy thuộc các tôn giáo lớn: hành trình huyền bí gồm chặng tu đức, nghĩa là thanh luyện linh hồn (bằng gậy và roi) trước khi tiến đến sự hoàn thiện.

2) Hai loạt bức tranh của Quách Am và Kyoetsu muốn giải thích tiến trình theo chiều hướng khác: sự bất toàn không hệ tại nết xấu làm cho ta đeo đuổi, nhưng ở chỗ lạc đường (mất trâu), hoặc đi tìm chân lý không đúng chỗ. “Đường” hay “chân lý” là chính Phật tính.

3) Từ đó ta thấy có hai quan niệm về hành trình huyền bí, dựa trên hai biểu tượng của con trâu:

– Một đàng, con trâu tượng trưng cho con người cần được biến đổi (từ đen đến trắng). Kết quả của hành trình huyền bí được nhận thấy ở nơi con trâu.

– Đàng khác, con trâu tượng trưng cho “chân lý” hay “Phật tính” mà ta phải đi tìm. Chủ thể của hành trình huyền bí là ta (mục đồng) chứ không phải là con trâu.

4) Xét về tận điểm của hành trình huyền bí, chúng ta nhận thấy có sự trùng hợp và khác biệt.

– Cả ba tác giả đều gặp nhau ở một bức tranh vẽ một vòng tròn, trong đó không thấy con trâu hoặc mục đồng. Phải chăng cả ba đều quan niệm tận điểm của hành trình huyền bí là “Vô”, theo quan điểm của thiền tông?

– Sự khác biệt của tác giả thứ nhất (Phổ Minh) với hai tác giả kia (Quách Am và Kyotetsu) ở chỗ vị trí của bức tranh đó. Fumyo xếp nó ở hàng thứ 10, nghĩa là bức tranh chót. Hai tác giả kia đặt nó ở số 8 (Quách Am) hoặc số 9 (Kyotetsu). Dù sao, đối với hai tác giả này, bức tranh cuối cùng diễn tả anh mục đồng trở về với xóm làng, nghĩa là sau khi anh đã giác ngộ, thì anh đã trở lại giáo hoá chúng sinh, chứ không hưởng riêng một mình.

Xin xem tiếp ngày mai

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.